Nghị quyết về Lễ Nghi Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Quang X Nguyen
Trong những ngày Tết Nguyên Đán, những người con, người cháu không chỉ được mời gọi thể hiện chữ hiếu đối với ông bà, cha mẹ khi các ngài còn sống, mà hướng đến những vị đã khuất. Do đó, cách đặc biệt, Giáo hội Công Giáo Việt Nam dành ngày Mồng Hai Tết Nguyên Đán để cầu nguyện cho các bậc tổ tiên, nhất là những vị đã qua đời.


Xin giới thiệu với quý vị và các bạn Nghị quyết về lễ nghi tôn kính ông bà tổ tiên của Hội Đồng Giám Mục (Miền Nam) Việt Nam vào năm 1974. Trong nghị quyết đề cập cách rõ ràng, cụ thể đến một số điều chúng ta sẽ làm trong ngày Tết Nguyên Đán để bày tỏ chữ hiếu đối với những người đã qua đời:



I- Bổn phận thảo kính đối với Ông Bà Cha Mẹ của người Công Giáo.

Khi nhìn lại quá trình loan báo Tin Mừng trong Năm Thánh, người giáo dân Việt Nam chúng ta vẫn còn đối diện với một ngộ nhận khá phổ biến nơi người ngoài Kitô giáo cho rằng: “Theo Đạo, bỏ ông bà”. Thực ra, người Kitô hữu được yêu cầu thực hành Mười Điều Răn, trong đó Điều Thứ Tư yêu cầu người Công giáo phải thảo kính cha mẹ. Hơn nữa, mỗi khi tham dự thánh lễ, mọi Kitô hữu đều cầu nguyện cho Ông Bà Tổ Tiên đã ly trần.


Như vậy, Hội Thánh buộc ngặt con cái mình phải chu toàn đạo hiếu. Khi cha mẹ còn sống thì nghĩa cử hiếu thảo của người Công Giáo và không Công Giáo có thể coi như giống nhau: yêu mến, kính trọng, vâng lời, giúp đỡ…. Nhưng đạo hiếu đối với người đã khuất có thể khác nhau. Một người không tôn giáo sẽ dành bàn thờ tổ tiên nơi trang trọng nhất trong nhà. Người Công Giáo dành nơi trang trọng nhất cho Thiên Chúa, vì Ngài là Cha, “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Eph 3, 14) và theo niềm tin của người Công Giáo thì: “Khi ngắm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên : chim có tổ, nước có nguồn, con người sinh ra có cha có mẹ. Nhưng nhờ ơn Cha mạc khải chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng ban cho các ngài ân huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Cha.” (Lời Tiền Tụng lễ Mùng Hai Tết, kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ).

Một người theo “đạo ông bà” sẽ rất dị ứng, khó chịu, đôi khi cho là xúc phạm khi phải dời bàn thờ tổ tiên nơi trọng tâm gia đình sang một bên. Nhưng với tinh thần tôn thờ Thiên Chúa là “Tổ Tiên của tổ tiên”, người tín hữu, và cả tổ tiên mình cũng vui mừng dành cho Thiên Chúa nơi thờ tự cao trọng nhất. Còn việc dâng hương, xá lạy. . . ta hãy đọc lại chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục. Sau đây là nguyên văn của Quyết nghị này:

II- Quyết nghị của các Giám mục Việt Nam về Lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên (1974)

Quyết nghị về Lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên

Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:

“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1974).

1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.

2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.

6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.

Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974

Ký tên:

- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế

- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho

- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long

- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ

- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang

- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột

- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Quy Nhơn