Điệp khúc tạ ơn

Văn thơ Công giáo
M. Vinh Sơn Nguyễn Thị Chung
Hạt Cát Sa Mạc, 1984, Gx Nhân Lộ, Gp Thanh Hóa
(Giải triển vọng VVĐT 2015)
- Trích tập “Người Gieo hạt”-
“Tạ ơn” là điệp khúc vang lên mãi trong suốt cuộc đời anh, cho dù có những lúc anh không sao hát nổi điệp khúc ấy. Trước khi ra về, cha Hoàng ghé vào tai anh, chẳng biết ngài nói với anh câu gì mà thấy anh nở nụ cười thật tươi rồi đáp lại: “Tạ ơn Chúa”.
Từ ngày anh và Liên kết hôn đến nay đã có ba đời cha xứ. Nhưng cha nào về nhận xứ cũng rất hài lòng với gia đình anh. Anh là một thành viên của ca đoàn và cũng là một gia đình Công giáo gương mẫu. Anh sống chan hòa với mọi người, ai cần gì anh cũng sẵn sàng giúp đỡ nên trong làng ngoài ngõ ai cũng đều quý mến anh. Anh cũng là người rất siêng năng đi lễ. Nhà anh cách nhà thờ không xa nên việc đến nhà thờ tối sáng đã trở thành thói quen và ngấm vào máu huyết của anh. Liên lấy anh rồi mới theo đạo nhưng ai cũng bảo Liên còn sốt sắng hơn những người đạo gốc. Vì Liên cũng bị “lây chất thánh” của anh. Có hôm thấy anh mệt, Liên bảo anh ở nhà nghỉ nhưng anh bảo: “Mình hy sinh một chút để cầu nguyện cho các linh hồn em ạ”. Nghe anh nói vậy Liên không dám cản nữa. Những buổi sáng mùa đông ở Miền Bắc, cái lạnh đến cắt da cắt thịt, chẳng ai muốn chui ra khỏi chăn. Thế mà anh chị vẫn tới nhà thờ. Chính cách sống đạo và gương sáng của anh làm cho nhiều người khô khan cũng được ơn hoán cải.
Nhưng người ta thường bảo “ở hiền mà chẳng gặp lành”! Chẳng biết điều ấy có đúng không nhưng cuộc đời của anh quả thực là lận đận. Anh và Liên lấy nhau đã gần sáu năm mà hai người vẫn chưa có mụn con nào. Hai vợ chồng đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi, ai mach bảo ở đâu là anh chị đều tới đó. Có lúc nhìn thấy những đứa trẻ hàng xóm chạy lon ton gọi ba, gọi mẹ mà anh lại thấy thèm. Rồi có những kẻ xấu miệng lâu lâu chêm vào một câu làm cho anh thấy tủi: “Cây khô không lộc, người độc không con”. Nhưng anh không sống trên dư luận. Vì anh tin vào tình thương và quyền năng của Chúa, anh nghĩ Chúa làm được những điều mà con người không thể làm. Cho nên ngay cả những lúc xem ra đau khổ và lời cầu nguyện của anh chẳng được Chúa nhận lời, anh vẫn không ngừng tạ ơn Chúa. Có lẽ vì thế mà điều ước của anh đã được Chúa lắng nghe. Năm thứ bảy kể từ ngày anh lấy Liên, Chúa đã ban cho anh điều mà anh mong ước bấy lâu, đó là một bé trai đã chào đời. Vì sự chờ đợi của anh chị quá lâu nên ngày bé chào đời không những là niềm vui cho gia đình, dòng họ mà cả xóm làng cũng vui lây. Ai nghe biết cũng đều đến chúc mừng anh chị. Bé càng lớn càng đẹp người đẹp nết, lại chăm ngoan học giỏi nên ai cũng đều thương mến. Anh chị coi bé là gia tài quý nhất của đời mình. Có bé gia đình vui và nhộn nhịp hẳn lên.
Thời gian trôi đi bé đã lớn và cũng đến lúc phải tung cánh để bay vào đời. Vì không muốn con rơi vào cảnh “nông dân truyền kiếp” như mình, nên anh chị đã cố gắng để con được lên thành phố học. Nhưng cuộc đời thật nhiều trớ trêu, chẳng ai biết trước được số phận tương lai của mình sẽ ra sao. Niềm vui và nỗi buồn như một ma lực cứ bám vào gia đình anh chị mãi không thôi.
Ngày bé nhận được giấy báo trúng tuyển đại học cũng là ngày chị bị tai nạn. Niềm vui đang dâng tràn trong gia đình anh bỗng lịm tắt khi chị bị tai nạn giao thông. Thời gian ấy anh phải tất tưởi chạy lên chạy xuống vừa chăm sóc cho chị, vừa phải lo giấy tờ cho con. Rồi ngày anh chị tiễn bé lên thành phố học cũng đã đến. Khi thấy con sắp vuột khỏi tầm tay mình, tâm trạng vui buồn cứ đan xen lẫn lộn nơi anh. Anh vui vì trong ngôi làng bé nhỏ này, con của anh là người đầu tiên được bước vào giảng đường đại học. Nhưng có lẽ anh buồn nhiều hơn vui nhưng anh không dám nói sợ chị buồn thêm. Mấy ngày nay chị cứ khóc rấm rức vì nghĩ đến giây phút chị sẽ phải xa người con độc nhất của mình. Chị không muốn bé đi xa chị chút nào, nếu không phải vì tương lai của bé chị đã giữ bé ở lại bên mình. Vì chỉ có mình bé nên bao nhiêu tình thương chị đều dành hết cho bé. Chị nghĩ đến cái cảnh ngôi nhà trống trải lạnh lẽo như khi bé chưa chào đời và chị òa lên khóc. Thấy chị khóc, sợ làm cho con bịn rịn và không đi được nên anh động viên:“Con nó đi học rồi lại về chứ nó có đi luôn đâu mà khóc”. Nói vậy nhưng trái tim anh lúc này cũng xốn xang   lắm.
Vì thương ba mẹ cực khổ nên bé học rất giỏi. Năm học đầu tiên bé đạt học sinh giỏi của trường, anh chị rất vui và tự hào về con. Hè năm ấy bé xin ở lại đi làm thêm để đầu năm học đỡ tiền cho bố mẹ. Từ trường về nhà cũng chỉ mất sáu, bảy chục cây số, nhưng mỗi lần nghĩ đến những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi của bố mẹ bé lại không dám về, vì về nhiều sợ tốn kém. Anh chị đọc ra được tình thương và lòng thảo hiếu của con nên anh chị cũng không dám mong nó về. Nhưng không hiểu sao hôm ấy chị thấy nhớ con. Ruột gan chị cứ bồn chồn và nóng lên như lửa đốt, chị buột miệng: “Anh Tuấn ơi! Có lẽ ngày mai em đi thăm con, sao bỗng dưng em thấy nóng ruột và nhớ con ghê lắm”. Nói thật anh cũng nhớ con lắm nhưng tình thương của người cha có bao giờ  tỏ lộ ra bên ngoài như tình thương của người mẹ đâu. Nghe chị nói như vậy anh chiều ý chị và bảo:“Em cứ thu xếp đi đi, công việc ở nhà để anh lo”. Hai vợ chồng đang còn bàn tính với nhau chưa hết câu chuyện thì có điện thoại báo về: Con của anh chị bị tai nạn và đã qua đời khi còn đang trên đường đến bệnh viện. Nghe tin sét đánh ấy chị không kiềm chế được, chị gào lên như một người điên, chị ngã xuống và lịm đi. Khi tỉnh lại chị tiếp tục gào, chị trách Trời tại sao lại đổ tai họa xuống đầu con chị, nó đâu có tội tình gì, gia đình chị có làm gì thất đức đâu, chị hoàn toàn bất lực và không hiểu... Chị khóc và khóc mãi cho đến khi chị không còn khóc được nữa, cho đến khi giọt nước mắt cuối cùng đã cạn. Chưa bao giờ chị than trách Chúa điều gì nhưng lần này nỗi đau của chị quá lớn nên chị đã nói mà không hiểu mình nói gì. Mọi người trong làng đều đến để chia sẻ nỗi đau với anh chị. Anh không gào, không hét như chị, nước mắt của anh cũng không rơi nhưng cõi lòng anh thì tan nát. Bao nhiêu hy vọng của anh và gia đình gởi gắm nơi con giờ đã hết. Kẻ nối dõi tông đường là con giờ còn đâu. Anh thực sự không hiểu tại sao Chúa lại nỡ lấy đi đứa con độc nhất mà chính Ngài đã ban cho anh.“Chúa ơi! Lúc này con phải hát điệp khúc tạ ơn như thế nào? Ước chi Chúa chỉ thử con như Ngài đã thử Apraham rồi Chúa sẽ lại cho con của con được sống”. Nhưng đấy chỉ là điều ước thôi, con anh đã vĩnh viễn ra đi và không bao giờ trở lại.

Từ khi đứa con độc nhất đột ngột ra đi, Liên trở nên như người mất trí, cả ngày cứ điên điên khùng khùng. Có lúc Liên cười khanh khách một mình rồi lại khóc hu hu như đứa bé. Có đêm đang ngủ Liên bật dậy lao ra đường như một con thiêu thân đang lao tìm ánh sáng. Anh phải vất vả lắm mới đưa được Liên về. Từ đó mỗi khi đi đâu anh đều phải khóa cửa để Liên ở trong nhà. Thấy con gái của mình chẳng còn ra người, được đứa cháu ngoại ông bà cưng nhất thì đột ngột ra đi, bố mẹ Liên đến khuyên anh bỏ đạo. Theo ông bà khi xem tướng số họ tin rằng: Tại anh là người có đạo nên anh gặp nhiều hoạn nạn, giờ chỉ cần anh bỏ đạo là giải được oan nghiệt. Anh giải thích: “Theo đạo không phải là điều làm cho gia đình anh gặp tại họa, nhưng chính Niềm Tin sẽ giúp cho con người hiểu được ý nghĩa và giá trị của đau khổ”. Thấy anh vẫn trung thành với Niềm Tin của mình, ông bà chửi mắng anh thậm tệ: “Đến nước này mà anh còn tin được à? Đấy, giờ vợ con anh như vậy anh đã thỏa mãn với niềm tin chết tiệt ấy chưa?”.
Thấy họ cố chấp như vậy anh chẳng nói gì, chỉ biết im lặng và im lặng. Đối với anh có nói gì lúc này cũng chẳng giải quyết được gì. Anh cũng đau khổ lắm, nhất là từ khi con anh chết và vợ anh điên, anh chẳng còn muốn sống nhưng anh vẫn tin. Anh tin Chúa không tạo ra thập giá cho con người. Chúa cũng không muốn con người khổ đau và bất hạnh. Anh vẫn thường nghe cha xứ giảng:“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào”. Nhưng anh vẫn thắc mắc tại sao Chúa lại để cho anh gặp quá nhiều đau khổ như vậy? Cho đến một ngày, anh ngộ ra rằng anh đang được đồng hình đồng dạng với Chúa. Chính lúc anh đau khổ nhất thì Chúa cũng đang đau khổ và đồng cảm với anh: “Đến như Con Một của mình, Chúa cũng chẳng tha nhưng đã trao nộp vì tất cả chúng ta”. Anh tự nhủ: “Chúa Cha chỉ có mỗi người con độc nhất mà cũng ban tặng cho chúng ta, thì tình yêu của mình dành cho Chúa đâu có thấm gì”. Nghĩ vậy anh thấy vui và càng vững tin vào tình thương quan phòng của Chúa hơn.
Từ đó anh không còn thấy buồn mỗi khi nhìn cái cảnh vợ điên điên khùng khùng nữa. Nhưng anh dành thời gian để ở bên Liên nhiều hơn và nhất là để dẫn Liên đi dạo vào mỗi buổi chiều cốt để cho Liên bớt căng thẳng. Hôm ấy được nghỉ nên anh muốn dành trọn ngày hôm đó cho Liên. Từ sáng sớm anh đã chuẩn bị đồ ăn cho bữa trưa và bữa tối. Thu xếp xong anh và Liên bắt đầu cuộc hành trình. Nói là cuộc hành trình chứ thực ra chỉ là từ nhà anh di chuyển tới cánh đồng lúa, nơi đó lần đầu tiên anh và Liên gặp nhau. Khi dẫn Liên đi men theo con đường mòn hai bên bờ lúa, mùi hương lúa thoang thoảng, mùi hương quen thuộc ấy như đang đi vào đánh thức từng ngõ ngách trong tâm trí Liên. Anh rất thích chỗ này vì từ đó nhìn ra hai bên là cả một cánh đồng lúa ngút ngàn. Anh quay lại bảo Liên: “Em nhìn kìa, lúa năm nay tốt thật, bông nào bông nấy nặng trĩu hạt. Tạ ơn Chúa cho bà con năm nay được mùa để dân làng bớt khổ”. Anh nói thì nói vậy chứ được mùa hay mất mùa đối với Liên cũng như nhau vì Liên đâu còn biết gì. Anh bật cười vì có lúc anh cho ăn rồi mà Liên còn bảo chưa được ăn.
“Em muốn ăn cơm chưa?”- Anh quay về phía Liên hỏi. Dường như Liên hiểu điều anh đang hỏi nên gật đầu. Anh quay sang với hộp cơm rồi bảo: “Em làm dấu tạ ơn Chúa rồi ăn nhé”. Từ ngày Liên bệnh, mỗi lần trước khi cho Liên ăn gì anh cũng đều làm    dấu cho Liên. Anh cầm tay phải của Liên đặt lên trán: “Em đọc nhân danh Cha đi em…”. Liên đọc theo câu anh vừa đọc. Thật bất ngờ khi Liên mới giơ tay đọc được câu “Nhân danh Cha…”,  thì  bao nhiêu ký ức như đang dội về trong Liên. Những “mầm ký ức” vùi sâu trong tiềm thức tưởng chừng đã ngủ quên nay trỗi dậy. Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong trí nhớ Liên là giây phút Liên   và anh quen nhau. Đó cũng là lần đầu tiên anh tập cho Liên làm dấu Thánh giá. Hôm đó cũng vào buổi chiều như thế này, giữa cánh đồng bao la chỉ có anh và Liên, anh cầm tay phải Liên đặt   lên trán rồi bảo:“Em đọc nhân danh Cha đi em”. Không ngờ“Mầm Tin” mà anh gieo vào lòng Liên chỉ bằng dấu Thánh giá ấy cứ lớn dần lên mãi. Cho dù có những lúc “Mần Tin” ấy bị dập vùi bởi gió bão, nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi nó lại tiếp tục đâm chồi và phát triển. Để rồi chính Liên lại là người gieo “Mầm Tin” đầu tiên vào lòng con qua dấu Thánh giá. Liên nhớ lại những ngày anh chị dẫn nhau đến nhà thờ… Bao nhiêu hình ảnh đẹp về Chúa mà anh đã gieo mầm nơi Liên cứ lần lượt hiện lên trong trí nhớ. Liên nhìn anh và bật lên:
- Anh Tuấn!
Anh đang cầm tay Liên, thấy Liên gọi anh tưởng mình đang mơ: “Có phải em gọi anh đấy không?”. Liên nhìn anh một cách âu yếm: “Dạ, em gọi anh”. Lâu lắm rồi hôm nay anh mới được nghe lại giọng nói thân thương và ánh mắt trìu mến của Liên, ánh mắt và giọng nói ấy một thời đã làm cho trái tim anh chao đảo, anh  vui sướng đến nghẹn ngào. Anh ôm chặt Liên vào lòng rồi thì thầm: “Tạ ơn Chúa”.
Tin Liên bình phục làm cho mọi người trong làng đều kéo đến phần vì tò mò và cũng là để chia sẻ niềm vui với anh. Đặc biệt là cha Hoàng, nghe tin một cái là cha tới ngay. Cha mừng cho anh đã vượt qua những“chướng ngại vật” cách xuất sắc. Và để tỏ lòng quý mến anh chị, Cha đã chờ cho mọi người về hết rồi Cha mới ra về. Cả ba má của Liên cũng đến không phải để chửi mắng anh như những lần trước, nhưng để xin lỗi anh về những thái độ không phải của mình.
Đêm hôm ấy, Liên nằm mơ thấy con hiện về với mình. Con khoác một áo choàng màu trắng chung quanh có đính những viên ngọc lấp lánh. Gương mặt của con tỏa sáng như được phủ một lớp hào quang, con tiến về phía Liên và gọi:“Mẹ ơi!”. Cái giọng quen thuộc của con làm cho Liên tỉnh dậy: “Con đã về trời rồi, giờ con đang được hưởng trọn niềm vui trong Chúa. Mẹ đừng buồn nữa nhé, con đi trước để dọn chỗ cho ba mẹ đó”. Nghe tiếng nói rồi Liên chẳng còn thấy gì nữa, Liên bật dậy lay anh.
- Con về anh ạ, con đã lên thiên  đàng.
Tưởng Liên trở lại tình trạng cũ. Anh ngồi dậy vỗ vào vai Liên: “Ngủ đi em, đừng suy nghĩ nhiều về những…”. Anh chưa nói hết câu Liên đã ngắt lời: “Không, con chúng ta đang sống anh ạ! Một sự sống trường tồn trong Thiên Chúa, một sự sống không còn lệ thuộc vào những vật chất và thời gian. Giờ thì em hiểu rồi, tất cả những gì xảy ra đều nằm trong tình thương quan phòng của Chúa. Em thấy con hạnh phúc trong Chúa là em vui rồi anh ạ. Đối với em như vậy là đủ”. Rồi Liên quỳ gối hướng về bàn thờ: “Con tạ ơn Chúa vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Thấy Liên nói một cách xác tín như vậy anh hiểu rằng vợ mình hoàn toàn tỉnh táo. Và anh cũng hiểu “Mầm Tin” mà chính Chúa đã gieo vào mảnh đất đời Liên đang tiếp tục lớn lên và vươn tới tầm vóc viên mãn trong Đức Kitô. Anh cũng quỳ lên và hướng về bàn thờ rồi lập lại điệp khúc tạ ơn: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.