Lăng kính riêng của nhà thơ Quách Tấn

Quang X Nguyen
1. Về tác giả Quách Tấn
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông có những tập thơ nổi tiếng: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941); 5 tập thơ khác đã in và 13 tập thơ chưa xuất bản.
Văn xuôi: Non nước Bình Định (1968), Xứ Trầm hương (1970); 6 tập văn khác đã in và 20 tập văn chưa xuất bản.
Nói về Hàn Mạc Tử, nhà thơ Quách Tấn (1910-1992) được coi là có một thế giá riêng, vì là người bạn rất thân đã được Hàn Mạc Tử ký thác di sản thơ văn. Từ vị thế ấy, ông đã kể lại những kỷ niệm với Hàn Mạc Tử, về bút danh, về hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa một số bài thơ mang nội dung tôn giáo và nhất là về ảnh hưởng Đạo Phật trên thơ Hàn Mạc Tử. Độc giả thường đón nhận những kỷ niệm ấy cách hồn nhiên và theo đó để hiểu thơ Hàn Mạc Tử. Tuy nhiên có một sự kiện khiến chúng tôi nghĩ rằng nên dè dặt về tính khách quan của những kỷ niệm.
Sự kiện nói đây là cước chú ở cuối trang 41 quyển Hàn Mạc Tử, Tác Phẩm, Phê Bình và Tưởng Niệm, của Phan Cự Đệ, Nxb Văn Học 2002: “Đây là nguyên văn thư của Phan Bội Châu, đầy đủ hơn và chính xác hơn so với tường thuật của Quách Tấn trong “Hàn Mạc Tử với thơ Đường luật” (Người Mới, ngày 30-11-1940).
Nguyên văn thư của cụ Phan như sau:
“Thưa tác giả P.T. tiên sinh
Tác giả cho tôi được đọc ba bài thơ, tôi lấy làm hân hạnh cho Mộng Du thi xã lắm. Xem trong thơ, u oán cao tình, thâm tâm nhã điệu, đủ cả mấy phương diện. Tôi chỉ phàn nàn rằng: “Người xướng quá cao, tất nhiên người họa phải ít” nên tôi xin tục điêu ba bài, khỏi để tác giả buồn sự cô điệu độc đàn mà thôi.
Còn như nói rằng: Tôi là người nối thơ được với tác giả, thì tôi không dám.
Ôi! Hồn giao nghìn dặm, biết làm sao được bắt tay nhau cười lớn một tiếng mới là thỏa hồn thơ đó!”
(Thực Nghiệp dân báo, số 3256, ngày 21-10-1931 – Trích lại theo PCĐ-1, 41).
Trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ Đường luật”, Quách Tấn viết: “Cụ họa vận cả ba và viết bài đăng trên một tờ báo quốc văn (báo Trung lập thì phải) hết lời khen ngợi. Về đoạn kết bài ấy tôi nhớ mày mạy như thế này: “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều song chưa gặp được bài báo nào hay đến thế... Ôi hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ, để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó”. (Người Mới, số 30, 11-1940 - Trích lại theo PCĐ-2, 374).
Ông Quách Tấn đã đọc điều cụ Phan viết. Ông nhớ chính xác được 13 từ cuối của cụ Phan, còn tất cả những dòng phía trên ông tự dàn dựng thành bối cảnh dẫn vào câu nói. Thêm vào đó, một lá thư đã biến thành một bài báo. Đó là vào năm ông 30 tuổi. Có thể trí nhớ của ông lúc ấy không tốt lắm hoặc ông không bận tâm lắm tới sự thật khách quan. Vấn đề là, lá thư trên giấy trắng mực đen còn được ông dàn dựng lại như thế, thì tính khách quan của những câu đối thoại đã bay theo gió thật khó kiểm chứng. Những người nghiên cứu về Hàn Mạc Tử cũng như độc giả đều trân trọng những kỷ niệm do ông Quách Tấn kể lại. Tuy nhiên, theo tôi, kỷ niệm là có thật nhưng liệu kỷ niệm có bị vận dụng để hỗ trợ cho điều mình muốn chứng minh chăng? Một khi đã bị vận dụng, sự thật khách quan của kỷ niệm dễ biến thiên theo câu chuyện.
Như thế, phải chăng vì đã xác tín sẵn “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần tô đậm hơn đạo Thiên Chúa” (Trích lại theo PCĐ-1, tr. 36) cho nên Quách Tấn có khuynh hướng giảm thiểu chiều sâu Kitô giáo nơi một số bài thơ đạo đặc biệt của Hàn Mạc Tử và khi kể lại kỷ niệm đã mặc quan điểm của mình cho người đã khuất để chứng minh điều mình muốn khẳng định? (Xem bài Đôi nét về Hàn Mạc Tử, trong PCĐ-2, tr, 180-207). Trong phần trích tuyển thơ Hàn Mạc Tử, chúng tôi cước chú nhiều số tham chiếu Kinh thánh cho các bài Ave Maria, Cô liêuCuối thu, chính là để giúp độc giả có thêm một hướng khi muốn tìm ý nghĩa thật của những bài ấy.
Từ khi còn là học sinh trung học tôi đã yêu thích Quách Tấn. Tôi không nghiêng về thơ Đường luật nhưng tôi yêu thích Quách Tấn vì ông là bạn thân của Hàn Mạc Tử, là tác giả Nước non Bình Định Xứ Trầm Hương, đặc biệt là vì chữ Quách trong tên ông (lúc ấy tôi không biết đó là tên họ). Khi chia sẻ những điều nói trên, về kinh nghiệm bình thường của nhân sinh, trong đó có cả bản thân mình, tôi chỉ mong đóng góp một hướng tìm kiếm sự thật, chứ không hề muốn giảm niềm kính trọng đối với một tiền bối trong văn giới.
khi đọc Hàn Mạc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh
Khi đọc Hàn Mạc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng
cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp,
mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh

Nếu một đàng tôi dè dặt với tính khách quan nơi những kỷ niệm của Quách Tấn thì đàng khác, tôi rất thích bài Ảnh hưởng Đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử dưới đây của ông. Tôi cho rằng đây là một hướng nghiên cứu đáng trân trọng và cần được tiếp tục.

Lm TRĂNG THẬP TỰ

Ÿ ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT TRONG THƠ HÀN MẠC TỬ - QUÁCH TẤN




Quách Tấn
Quách Tấn
Hàn Mạc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc – nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn của một tâm hồn.
Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn – một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ – mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng ý muốn của người thơ. Cho nên xem thơ Hàn Mạc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử, nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc.
Trong tâm hồn Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng mình là “Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo và dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh Nữ Đồng Trinh là một.
Bài này là những lời Tử dâng lên Đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả”, mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong “cơn lâm lụy”. Trong bài có những chữ “Từ Bi”, “ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới
Hai chữ “từ bi”, còn thấy dùng trong nhiều bài khác:
Thơ tôi thương huyền diệu
Mọc lên đạo từ bi
(Cao Hứng)
Trời từ bi cảm động ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá
(Hãy Nhập Hồn Em)
Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “hằng hà sa số”, “mười phương” cũng thường gặp trong thơ Tử:
Mây vẽ hằng hà sa số lệ
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn
(Cuối Thu)
Đóng cửa mười phương lại
Dồn ánh sáng vào đây
(Điềm lạ)
Trời như hớp phải hơi men ngan ngát
Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương
(Nguồn thơm)
Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mạc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo:
Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo không biết mấy là hương.
(Phan Thiết)
Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,
Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.
(Phan Thiết)
Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như “thành chánh quả”, “sông Hằng”, Tử vãi tung thơ lên tận sông Hằng (Phan Thiết). Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Ly”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng – chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình: con chim Phụng Hoàng vì Sân Si mà phải đoạ, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, “nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà “chôn hận nghìn thu” và “sầu muộn ngất ngư”.
Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mạc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:
Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hoá đại điện đã rất nên tráng lệ
(Phan Thiết)
Và cõi đời này – mà Phan Thiết là tượng trưng–là nơi đau khổ, là nơi “chôn hận nghìn thu”, là nơi “sầu muộn ngất ngư”. Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
(Ngoài vũ trụ)
Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác
Rất phương phi trên hết cả anh hoa
(Ra đời)
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
(Đêm xuân cầu nguyện)
Những “ánh sáng vô cùng” “sáng láng cả mọi miền”, những tiếng “nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác” những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc”, ở trong Tử là vang bóng của “vô lượng quang” của “thiên nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo” trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.
Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. “Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép mầu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung?” (bài tựa Xuân như ý). Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng? Hàn Mạc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (lòng vô lượng), mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời) chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời gian (năm muôn năm). Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Tử đã quan niệm cái Tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô Chung, và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu” của Đức Chúa Trời, nên Tử “cao rao danh Cha cả sáng”. Như thế Hàn Mạc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo – Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho thơ thêm giàu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là “phạm thượng” đối với những Đấng Thiêng Liêng mà Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ;
Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng:
Ta chắp hai tay, lạy quỳ hoan hảo,
Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian,
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
(Đêm xuân cầu nguyện).
Nghĩ đến những gì “giàu sang hơn Thượng Đế”, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện:
Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi.
Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ Chúa trên thơ.
Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu
Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu
Còn đối với Đạo Phật? Hàn Mạc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng,
Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa giáo – một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng: “Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả hai thể văn và tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giàu cho nền văn chương chung”.
Bởi vậy, khi đọc Hàn Mạc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.

Quách Tấn
Trích trong cuốn Nguồn Đạo Trong Thơ Văn của Quách Tấn do nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm 2007.

Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 195-205.