Chỉ một niềm tin

Quang X Nguyen

Tượng Đức Mẹ tại trại phong Qui Hòa

Năm 1937, trước khi đi Đà Lạt, tôi trông thấy anh buồn rầu ảm đạm như mất hết hy vọng được khỏi bệnh. Anh không muốn nói chuyện với ai, chỉ thích ngồi một mình, đọc kinh hay lần hột chuỗi Mân côi.
Từ đầu năm bệnh anh phát mau như ngựa chạy. Bạn bè cũng thưa thớt đến chơi. Anh mong mỏi Đức Mẹ làm phép lạ cứu anh một lần nữa.
Mặc dầu cố Labiansse nói với anh Đức Mẹ không có quyền làm phép lạ như đã xảy ra ở bờ biển, nhưng anh tin điều ấy đã xảy ra. Anh lý luận phép lạ ở tiệc cưới Cana mà Kinh thánh kể lại Chúa làm cho nước trở thành rượu chỉ vì Đức Mẹ xin Chúa làm. Sự trông cậy của anh vì vậy rất có lý.
Thấy anh thích nguyện ngắm, tôi trao cho anh tập sách nhỏ Imitation de Jésus Christ của Lamennais, anh vui mừng như bắt được của. Nhất là khi đọc câu: “Dieu seul sait le temps et la manière de vous délivrer”, anh hớn hở lạ thường. Anh nói: Đúng rồi! Chỉ có Chúa mới biết được lúc nào và bằng cách nào để giải thoát cho con. Từ đó anh gia tâm cầu nguyện gắn bó thiết tha hơn.
Lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô đã trở thành của chính anh: “Xin cho con ra khỏi cái thân xác nặng nề hôi hám đang giam hãm con”.
Trong bốn năm đau, những suy niệm về mầu nhiệm giải thoát trở thành mơ ước và những mơ ước chân thành đó, có thể biến ra nhiều hình ảnh tuyệt vời nơi chân trời mới của anh, trong những giấc mơ xuất thần.
Đức Tin đã có dấu hiệu tốt, anh viết:
Đức Tin thơm hơn ngọc
Thơ bay rồi thơ bay
Mau gò giai âm lại
Sớt bớt nghĩa đêm nay
Có tin thôn xa đến
Có điềm lạ đêm nay
Đóng cửa mười phương lại
Dồn ánh sáng vào đây
Ngoài không gian mất mát
Chim thanh tước ra đời
Nêu cao hơn tiếng nhạc
Nhà hát sẽ xanh tươi.
Trong bài Điềm lạ trên đây vừa kể, anh đã nhận ra được Một Mùa Xuân mới anh mơ ước ra đời. Anh vội vã viết một loạt bài cho Mùa Xuân như ý.
Trong lời tựa Hàn viết:
Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào đây... Lời thơ ta sẽ sáng trưng như thất bảo. Tình cảm ta sẽ nóng ran như mặt trời. Ý tứ ta sẽ cao cường hơn ngọn núi.
Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao!
Lòng vô lượng đây không do phép tác mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung?
Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm...
Đưa ra, nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược.
... Và loài người hãy cám ơn Thi nhân đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng...
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió.
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao...
Thi nhân sẽ vừa say sưa, vừa điên cuồng, ọc ra từng búng thơ sáng láng, phương phi như một mùa Xuân như ý.
RA ĐỜI
A! A! A!
Thiên địa đắm hoang mang
Là đương khi thờ lạy cả Thiên đàng
Bay xa những tiếng tung hô Thánh Đức
Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực
Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly
Ôi cao sang khôn ví trọng ai bì
Trên nước cả có muôn vàn châu báu
Trí rất ngớp bởi chưng Xuân hồn hậu
Đã ra đời theo lệnh cả Ngôi Hai
Ôi! Thánh tai, Thánh tai và Thánh tai
Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng rất thơm tho man mác
Rất phương phi trên hết cả anh hoa
Xuân ra đời...
Điềm ngọc ấm như ngà...
Mùa xuân mới đến với anh thình lình, cũng làm cho anh hoảng sợ:
Xuân thế gian chưa có tại trong lòng
Muôn ý tứ say chìm nơi bất giác
Hương cám dỗ mê người trong khoái lạc
Và anh hân hoan tận hưởng nguồn thơm từ bốn mùa xuân anh chưa hề được hưởng. Trong bài Nguồn thơm, anh viết:
Trí đương no và khí xuân đương khoẻ
Nhạc đương say và rượu vẫn còn thơm
Nên muôn cánh thuỷ tiên chưa dám hé
Trong phút giây trang trọng của linh hồn...
... Tứ thời xuân, tứ thời xuân non nước
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang
Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian...
... Ta cao ngâm giọng vô cùng thanh thoát
Khiến châu thân rung động thể tơ trăng
Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc
Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nàng...
Anh đang đứng trước ngưỡng cửa một cuộc đời mới, có một mùa xuân gấm vóc như ước mơ mà từ bốn năm Thương Khó, anh mới được Thiên Chúa hé mở cho trông thấy. Anh vừa nghi ngờ vừa tin tưởng cái ngày mai đó. Anh viết:
Mai này thiên địa mới tinh khôi
Gió căng hơi và nhạc lên trời
Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết
Hoa lá hồ nghi sự ra đời
Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm
Còn mặt trời kia tơ khối vàng
Có người trai mới im như nguyệt
Gió căng hơi và nhạc lên ngàn
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào đã ra đời ngọc biết tên.
 (Xuân Đầu tiên)
Anh dọn mình sám hối, tỉnh thức và cầu nguyện trắng đêm để dâng lên muôn kinh thơm tho ca ngợi Thiên Chúa.
Anh dọn mình sám hối, tỉnh thức và cầu nguyện trắng đêm để dâng lên muôn kinh thơm tho ca ngợi Thiên Chúa.

Vì vậy đêm nay, dưới bầu trời bình yên như nguyệt bạch, anh sửa soạn một tâm hồn thật trong trắng như một người ngoan đạo dọn mình sám hối, tỉnh thức và cầu nguyện trắng đêm để dâng lên muôn kinh thơm tho ca ngợi Thiên Chúa.
Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch
Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay
Đây là hương quí trọng thấm trong mây
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm
Câu tán tụng không khen lòng cả phiếm
Bút Xuân thu mùa nhạn đến vừa khi
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi
Cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc
Và đầu hôm một vì sao mới mọc
Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô
Vì muôn kính dồn dập cõi thơm tho
Thêm nghĩa lý ánh sáng trong như thất bảo
Ta chấp hai tay, lạy quì hoan hảo
Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ
Của phường trai mê mẩn khí thanh cao
Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao
Mà ánh sáng không còn khiêm nhượng nữa
Đương cầu xin, ọc thơ ra đường sữa
Ta ngất đi trong khoái lạc hồn đau
Nhịp song đôi này đây cung cầm nguyệt
Ướp lời thơ thành phước lộc đường tu
Tôi van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng
(Đêm Xuân cầu nguyện)
Mùa Phục Sinh, tôi về Quy Nhơn nghỉ lễ trông thấy anh tuy gầy hơn nhưng đôi mắt linh hoạt khác thường như có vẻ hân hoan, tôi hỏi có gì vui không. Anh đọc hai câu:
Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ
Của phường trai mê mẩn khí thanh cao
Sau khi đọc bài Đêm xuân cầu nguyện, tôi hiểu anh xem như đã hoàn tất một mùa Thương Khó 4 năm của anh, Mùa của người Công giáo đền tội, để cùng sống lại trong ân nghĩa Chúa. Anh cũng dâng bốn năm hoạn nạn:
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
Bây giờ thì bốn năm hoạn nạn đã đơm bông kết trái, anh chỉ còn chờ được giải thoát thôi.
Anh tin mạnh mẽ sẽ được giải thoát nhưng bằng cách nào đây, anh không hiểu
Anh tin mạnh mẽ sẽ được giải thoát nhưng bằng cách nào đây, anh không hiểu

Giải thoát, hai chữ đó, đối với anh rất mơ hồ. Anh tin mạnh mẽ sẽ được giải thoát nhưng bằng cách nào đây, anh không hiểu. Ước mơ lạ lùng đó đã thành một thói quen, hơn nữa, một cố tật.
Anh lại mò mẫm, lại tìm kiếm, lại xuất thần trong những cơn mê mà anh từng lý luận:
Hễ hơi khói càng cao, hơi trăng càng trong thì hơi thở của tôi càng thơm. Hơi thở ấy góp cùng muôn hơi đằm thắm sẽ châu lưu khắp bầu thế giới và chung quanh tôi, dầu gần gũi hay bao la đều nhận một màu sắc phiêu diêu. Tôi rất ngợp. Tôi hứng lấy và nhận lấy ở trong hồn muôn ý tứ và muôn thanh sắc của trời mộng xa xưa.
Tôi đi từ thực tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết.
Mộng tàn rồi, nghĩa là mộng biến đi. Những điều tôi vừa thấy toàn là huyền hoặc cả sao? Có lẽ nào!
Đại để những điều anh giải thích về những việc lạ lùng trong thơ anh đã gặp giữa hai cõi Mộng và Thực mà anh nói phải mất bao nhiêu trang giấy mực để nói ra và chưa chắc người đời đã hiểu. Đúng là chẳng hiểu được gì để biết thơ anh với những giải thích sơ sài chừng ấy.
Anh viết trong bài Siêu Thoát:
Hồn vốn ưa phiêu lưu trong gió nhẹ
Bay giang hồ không sót một phương nào
Càng lên cao giây đồng vọng càng cao
Hồn hỡi hồn lên nữa quá thinh gian...
Anh bị cám dỗ lên cao hơn khỏi vùng trời Xuân như ý mà anh vừa đi qua để vào một vùng khác, vùng Thượng thanh khí. Chữ Thượng thanh khí anh dùng đây, để chỉ một vùng trời ngoài bầu khí quyển, cao hơn, trong thanh hơn, tinh sạch hơn. Nơi đây, có lẽ anh thuờng trông thấy một màu xanh anh đã kể lại trong nhiều bài thơ:
Một chiều xanh, một chiều xanh lờn lợt
Sóng bao la vây lút cả không gian...
Ở một chỗ khác anh viết:
Đã trong rồi và thanh tao đến tới
Bao nhiêu tơ chuyển được tiếng thơ bay
Êm êm hơn đừng cho xanh lờn lợt
 (Vầng trăng)
Trong bài Tình Hoa anh viết:
Mình gom hết thành bại và thâu thức
Mình giải quyết tiêu tao và nô nức
Tứ rung rung cho quá trí dật dờ
Rồi bay từ diệu vợi đến xanh mơ
Từ bên ngọc dời sang châu Dủ Lý
Từ Minh Triết lần lần theo ý chí...
Hình như anh có khả năng kỳ dị lại vùn vụt trong bầu khí quyển xanh xanh đó, màu xanh mà ngày nay các phi hành gia vũ trụ đã trông thấy khi vượt khỏi tốc độ âm thanh. Hàn cũng đã cho thấy anh đi trong cõi bao la miên trường cho đến tột cùng vĩnh cửu như chính anh là một hành tinh vậy. Hoặc là có được khả năng như chiếc máy ảnh tinh vi hiện đại, rượt theo tốc độ ánh sáng để qua lại những hình ảnh đã qua đi từ nhiều thế kỷ trước.
Anh viết trong bài Đừng cho lòng bay xa:
Thượng thanh khí, tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đời trắng mọc nước huyền vi
Đây miên trường, đây vĩnh cửu đề phi
Cao cao vượt với hai hàng bóng vía
Trời nhật nguyệt cầu vồng bắt tứ phía
Ôi! Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây.
Hương ân tình cho kết lại thành dây
Mong manh như lời nhớ thương hàng triệu
Đàn cung bậc gió dồn lên âm điệu
Sững lòng chưa say chấp cả thanh bai
Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai?
Thu đây rồi bước lên cầu ô thước
Sao? Vàng sao, rơi đầy trên sông nước
Đừng nửa tay mà hứng máu trời sa
Thôi! kéo về đừng cho lòng bay xa.
Thu vươn này, thu vươn ra như ý
Mau rất mau trong muôn hoa kiều mị
Mùa rất trai mà ánh sáng rất cao
Đừng nói buồn, mà không khí nao nao
Để chơi vơi này bông trăng là gió
Để phiêu phiêu này tờ thơ vàng vọ
Để dầm dề hạt lệ ta đôi ta
Tầng thượng tầng, lâu đài ngọc đơm ra
Khói nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc
Tiếng huyền dịch gò theo tia yến nguyệt
Đẩy đưa dài, hơi ngào ngạt trầm mơ
Thinh không tan như bào ảnh hư vô
Giải ngân hà biến theo cầu Ô thước
Và ước ao và nhớ nhung lần lượt
Đắm im lìm trong mường tượng buồn thiu
Vì vậy, đọc tập Thượng thanh khí, tôi chỉ hiểu lơ mơ anh đang say sưa với một thế giới không tưởng. Có thể là anh đã bị ảnh hưởng nặng của nhà văn giả tưởng Pháp Jules Verne, tác giả những tập sách Từ địa cầu đến mặt trăng hay Hai mươi ngàn dặm dưới đáy bể.
Nếu quả anh đang ở trong tình trạng mất trọng lượng của con tim hay trí óc thì chắc là anh dám nói tiên tri như Jules Verne về tương lai của vũ trụ ngày nay.
Chính trong giai đoạn này, người bạn thân của anh, giới thiệu cho anh Nàng tiên nhỏ Thương Thương, để kéo lui anh về thực tại của trần thế. Quả thật anh đang mơ vào một cảnh Bồng Lai, và Thương Thương lại có cơ hội được đặt vào khung cảnh tuyệt đẹp đó. Anh bắt đầu tả những cảnh anh đang lạc lõng ở Bồng Lai mà tiếng tiêu sầu rất khêu gợi, hòa với tiếng suối reo lên như tiếng lòng anh.
... Ồ! Tiếng tiêu đâu bay ra man mác
Khiến nao nao nguồn thanh tịnh quanh mình
... Ta là khúc phượng cầu hoàng năm trước
Đem ân tình trải khắp cõi trần duyên
Chàng:
Phải quê nàng ở Đào Nguyên
Bởi chưng sắc đẹp lại thêm đa tình
Xuống đây tìm nợ ba sinh
Không hay trời khiến ta mình gặp nhau.
Nàng:
Em là Trần Thương Thương
Ngụ ở bến Tầm Dương
Đi tìm chàng thi sĩ
Trong pho sách kim cương
(Tập kịch Duyên Kỳ ngộ này thuộc tập thơ Cẩm châu duyên đã từng được phổ biến nhiều. Ở đây, tôi chỉ xin ghi lại những nét riêng tư của Hàn)

Mối tình duyên kỳ ngộ tuyệt đẹp này đáng lẽ còn đưa anh đi xa hơn trong cõi mộng Bồng Lai mơ ước với hoa lá suối chim rất thần tiên trong đó, và anh còn đang viết thêm một cảnh Quần tiên nội nữa. Nhưng, vì một lẽ riêng nào đó anh đành phải dẹp bỏ.
Anh viết:
Gặp em đây, khác gì trong giấc mộng
Biết làm sao cho thỏa hết tình thương
Tiếng lòng anh vẫn luôn luôn đồng vọng
Luôn luôn reo kêu gọi đến tình nương
Nàng:
Tình quân hỡi, muôn năm em chỉ muốn
Sống bên anh cho thắm đượm tình yêu
Chàng:
Than ôi! Hỡi lời biệt ly chan chứa
Tưởng cùng em vui hưởng thú tiêu dao
Anh sắp đi rồi hai hàng lệ ứa
Cả đau thương dồn dập xót tâm bào...
Duyên Kỳ ngộ và Quần tiên hội là những hình ảnh cuối cùng càng được nói đến trong cuộc đời thơ của anh cho đến khi anh vào Quy Hòa.

Những gì còn ghi đậm trong mối tình đó là bài thơ dễ thương nhất: Nỗi buồn vô duyên. Có hai câu làm tôi cảm động:
Đừng ai nói để thương cho
Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam.
Nghe như có tiếng ai dỗ ngọt: Thôi mà nín đi! Tôi thương mà! Đừng khóc nữa. Nghe sao tội nghiệp quá!
Vì vậy mà tiếng tiêu sầu còn đuổi theo cám dỗ:
Nghê thường lên, nàng Hằng ra
... Âm thanh lên cao nhạc lừng ran
Tôi lại gần bên. Ô! Lạ thường
Nường trăng Ô! Chính là Thương Thương
Hoảng hốt tôi ôm chầm lấy Nường
Thương ôi Nường đã biến ra sương.
Từ đó không còn ai nghe được thơ anh nữa nhưng khi anh vào Quy Hòa, anh lại viết, đoạn thơ bỏ dở: Quần tiên hội (lâu nay tôi vẫn tin thế) mà anh chưa hoàn tất.
Bây giờ là những Nàng tiên tu hội Phanxicô. Những Nàng tiên đang săn sóc anh, đang an ủi anh. Những Nàng tiên này đã để lại trong con tim anh, trong đầu óc anh những hình ảnh tuyệt vời mà thường mang theo trong giấc ngủ vĩnh viễn trên chiếc giường bệnh cô đơn lặng lẽ không ai hay biết.
Phải gọi là bài thơ “tiếp điêu” Quần tiên hội, anh viết bằng tiếng Pháp:
La Pureté de l’âme
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, apportez-moi une couronne.
Je veux (me) baigner dans l’Océan de lumière et d’amour divin.
Car ici-bas s’acomplissebt des miracles qui tiennent les hommes muets d’admiration en contemplant l’oeuvre mystique du Très-Haut.
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, voyez-vous cette luer diaphane qui so prescise, cette blancheur de neige, cette forme immaculée, cette âme apparue au monde?... Je crois dès le premier abord que c’est l’espritdes saints, la poésie, la quintessence de la prière, qui au lieu s’exbaler en parfum et en éther, prend la modeste résolution de se faire créature!
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, applaudiessez: carce soles Mères les Soeures de Saint François d’Assise qui descendent au monde pour cal mer les douleurs et les peines des faibles mortels, des malades et des lépreux tels que nous sommes.
Je veux chanter des louanges, me désaltérer de leurs douces paroles quand elles chantent: Hosanna! Hosanna!
Je veux toujours admirer cette blancheur immaculée, cette frâicheur cette lumière, cette poésie, car tout cels est l’emblème de la PURETÉ DE L’ÂME!
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, lanez-vous des roses et des nénuphards, des chants mélodieux et des notes embaumées et versez avec effusion les vertus le courage et le bonneur parmi les servantes de Dieu.
François Trí
Dée gratias
Nui de Mercredi
24 Octobre 1940
(Dịch: theo ông Trần Thanh Mại)
Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi một vòng hoa.
Tôi muốn tắm trong bể ánh sáng và lòng yêu kính thiêng liêng.
Bởi vì dưới cõi trần gian, đã thành tựu nhiều phép lạ nó làm cho người ta phải nghẹn ngào vì khâm phục khi ngưỡng vọng cái sự nghiệp thần bí của Đấng Tối Cao.
Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, các người có thấy cái ánh sáng trong mờ càng ngày càng rõ rệt, cái màu sắc trắng tuyết kia, cái hình hài không vết bợn kia, cái linh hồn hiện lên nơi cõi thế kia, ngay khi mới thấy, tôi đã chắc đó là cái hồn phách của các vị thánh, các thi tứ, cai tinh hoa của sự cầu nguyện đáng lẽ thì bốc lên hương thơm và tinh khí, nhưng đây chỉ khiêm tốn quyết định hóa ra Người.
Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy vỗ tay lên: Bởi vì đó là các Mẹ và các Chị dòng Saint François d’Assise, xuống cõi trần gian để an ủi những đau khổ, lo âu của loài người yếu đuối, của các bệnh nhân tàn tật, của những người phong hủi là chúng tôi đây.
Tôi muốn ca lên những bài khen ngợi, hứng uống cho thật đã những lời êm dịu của các bà, khi các bà đồng hát bài Thánh Ca: Hosanna! Hosanna! (Xin cứu với, xin cứu với!)
Tôi muốn bao giờ cũng thán thưởng cái hình thể trắng tinh không vết ấy sức tươi mát, nguồn ánh sáng, bầy thơ ấy, vì tất cả đó là biểu tượng của TẤM LINH HỒN THANH KHIẾT
Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những đóa hoa hồng, hoa súng, những điệu hát réo vắt và những hơi nhạc thơm tho, và xin hãy rưới trúc cho tràn trề nào là đức hạnh, can đảm và hạnh phúc cho những vị nữ tỳ của Đức Chúa.
Đêm thứ 24 tháng mười 1940
François Trí
Cảm tạ Thượng Đế.

Nguyễn Bá Tín
(Hàn Mạc Tử trong riêng tư)

Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 252-263.