Gót mòn

Văn thơ Công giáo
(Mã số 18-058)

Tiếng chân chạy uỳnh uỵch, làm hai mẹ con giật mình, ngưng dọn dẹp để nhìn xem chuyện gì. Chàng con trai, tay cầm cây gậy đang giơ cao, sẵn sàng giáng xuống. Cơn giận cháy nghi ngút, khiến anh không kìm nổi. Tiếng thét vang lên như kẻ khát máu nhìn thấy kẻ thù sau mười năm tìm kiếm:
- Đồ chó, tao mà thấy mày, thì tao giết…
Bà mẹ liền hỏi với giọng điệu bình thản, chẳng mong câu trả lời:
- Có chuyện gì, mà mày nổi khùng lên như vậy?
Vì bà quá quen với những cơn nổi khùng chẳng ra đâu vào đâu của cậu con trai. Sinh cậu ra là con út trong nhà mười hai người con. Bà hiểu từng đứa nhưng đứa út là thằng Thêm khùng này thì bà chẳng hiểu chút nào. Tính tình nó khác thường, khác thường thế nào thì bà cũng không diễn đạt thành lời được. Hơn nữa bà cũng không muốn kể xấu con trai mình, dù sao cũng do mình dứt ruột đẻ ra. Nhưng trong một lần bà tắm cho cậu, khi cậu được khoảng mười tuổi, thì bà phát hiện hai gót chân cậu không tròn trịa bình thường mà bị vẹt một góc phía ngoài.
Bà ngạc nhiên hỏi Thêm.

- Sao hai gót chân con lại mòn hẳn một góc như vậy?
Câu hỏi vừa dứt, cậu con trai đang đứng tắm tồng ngồng liền khóc toáng lên và nằm lăn ra sân giếng khóc như bị trời đánh. Hai chân cậu thì đạp xuống nền sân, khiến nền sân mòn sâu xuống thành hai cái rãnh. Bà mẹ đành để mặc cậu, vì biết chẳng thể dỗ dành được.
Vào trong nhà, nhìn con khóc, bà thầm hiểu tại sao gót chân cậu mòn. Từ khi cậu biết khóc, khi gặp chuyện gì không như ý, từ chỗ ngồi hắn thích mà lỡ bị ai ngồi mất; hay chuyện mất một cái kẹo không rõ ai lấy; hoặc đến chuyện chẳng may cậu dẫm vào bãi cứt chó trên đường… cậu lập tức ngồi xuống khóc, và mài hai gót chân xuống nền từ một đến vài tiếng đồng hồ, kể cả không cần ăn.
Bà mẹ thản nhiên bao nhiêu thì cô con dâu tốt bụng lại ngạc nhiên và cảm thấy thương cho anh chồng bấy nhiêu. Cô vốn xuất thân từ gia đình không giàu nhưng rất hiền lành, từ nhỏ cô không thấy gia đình cô to tiếng một lời, ai cũng nhẹ nhàng, tốt bụng, vui vẻ yêu thương nhau đến nỗi cả xóm làng đều quý mến và đặt cho cái tên là gia đình Nazareth kiểu mẫu của giáo xứ. Họ giải thích vì gia đình đó duy trì việc đọc kinh tối hàng ngày, nên được nhiều ơn như vậy. Ai cũng nghĩ là đúng, khi nhìn vào sự hạnh phúc của gia đình cô. Nhưng tính ra, cả giáo xứ 700 hộ gia đình này, thì chẳng gia đình nào duy trì được sự tốt đẹp đó. Họ vịn ra trăm triệu lý do để không làm được.
Lòng tốt bụng tự nhiên khiến cô tiến lại gần anh và nhẹ nhàng nói.
- Thôi anh ạ, con chó nó đi trốn là nó biết lỗi rồi, anh bỏ qua cho nó, đừng giận dữ nữa…
Lời chưa dứt, cây gậy trên tay anh đập túi bụi vào người chị. Anh đánh chị như thể đánh con chó mà anh đang không tìm được. Không phân biệt đầu, tay, chân, vừa đánh anh vừa chửi: 
- Đồ chó… đồ chó…
Mặc dù quen với cảnh anh hay dùng gậy đánh chó, đập cái này cái kia khi tức giận, nhưng hôm nay bà mẹ không ngờ. Không ngờ, nó dám đánh người vợ mới cưới trước đêm tân hôn như đánh một con chó. Bà hoảng hốt, lao tới đẩy đứa con trai ra. Lúc này, những làn roi đã in lên mặt, lên người, tay, chân… nhiều vết sưng rớm máu.
Người mẹ không ngờ một, thì người vợ trẻ không ngờ gấp ngàn. Cô chỉ còn kịp ôm đầu ngồi quỵ xuống, không kêu la, không chạy, không kháng cự, không khóc vì không kịp hiểu gì mà cũng chẳng biết kháng cự làm sao.
Người mẹ ôm chầm lấy con dâu liên miệng nói với nước mắt xót xa tuôn chảy.
- Mẹ xin lỗi con, mẹ xin lỗi…
Ôm con dâu trong vòng tay, bà ngoái lại quát cậu con trai với giọng đầy oan nghiệt.
- Trời tru đất diệt mày đi! Đồ lạc loài, mày là người hay là ngợm, có ai trong nhà này như mày không?
Bà dìu cô vào phòng, thay áo, xoa dầu, vỗ về... trong khi người con dâu thẫn thờ như hồn đã lạc mất. Khi mẹ chồng làm xong mọi sự, dẫn cô vào giường ngủ để cô nằm nghỉ thì cô mới nói đôi từ lí nhí trong miệng:
- Con cám ơn mẹ.
Đêm hôm ấy, đêm tân hôn, chị quấn chăn phủ kín người như khi người ta quấn chặt xác chết để chuẩn bị mang chôn. Nằm trong chăn, nước mắt chị chảy ròng ròng, nhưng miệng thì cắn chặt hai bờ môi để không cho phát ra tiếng. Trong cơn khốn cực này, chị vẫn cố giơ tay ra để làm dấu thánh giá nhưng chiếc chăn quấn chặt gây khó khăn cho chị rất nhiều.
Làm dấu xong chị ngầm hiểu, thánh giá Chúa trao cho chị to và nặng dường nào. Tương lai của chị bị bó chặt, mịt mù và đen tối hơn cả đêm ba mươi của Chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn. Vì đây, trong chiếc chăn quấn chặt chị mường tượng chị phải chịu cảnh đen tối này không chỉ đêm mà cả ngày, không chỉ một ngày mà dài dài…
Chị đang nghĩ gì, làm gì thì những giọt nước mắt không cần biết. Chúng chảy ướt hết lớp chăn, xuyên qua chiếu, ướt sũng giát giường, rồi nhỏ lỏng tỏng lênh láng xuống sàn nhà. Thật khó tin, khó tưởng tượng ra điều gì xảy ra với chị, khó tưởng tượng ra đau khổ chị đang chịu nó khủng khiếp thế nào.
Cơn bão không âm thanh đang hoành hành, xé tan nát tâm hồn chị cách tàn bạo. Nhưng những giọt nước mắt nhỏ nhẹ lại đang gióng lên thứ âm thanh đâm thấu lòng người. 
Giữa đêm khuya, tiếng kêu tọp…tọp…tọp… đều đặn, khiến mẹ chồng không ngủ được. Bà ra ngoài xem trời có mưa không. Bà ngạc nhiên khi thấy trăng sao giăng kín, bầu trời thì cao thật cao. Còn người con trai đang nằm co quắp vì lạnh trên tấm chiếu đơn duy nhất bên hành lang. Hắn nằm úp mặt vào tường, hắn chẳng thấy đêm nay đẹp, hắn cũng chẳng biết đêm nay là đêm tân hôn của hắn, và chắc chắn hắn cũng chẳng thể nghe thấy những giọt nước mắt rơi dù hắn nằm ngay cửa phòng. Nỗi sân hận quá lớn trong lòng hắn, làm hắn trở nên vô cảm. Hắn là người đau khổ nhất thế gian này nên ai đau khổ bao nhiêu cũng chẳng cần quan tâm.
 Hắn ngủ hay thức thì chỉ có hắn với Chúa mới biết, lúc nào hắn cũng nằm co quắp, úp mặt vào tường như vậy. Bà mẹ chẳng quan tâm tới hắn, bước qua người hắn, đẩy hé cửa nhìn vào. Bà thấy cô con dâu quấn chặt trong chăn, nhưng gầm giường thì ướt đẫm. Bà hiểu chuyện gì, bà hiểu tiếng mưa từ đâu, bà hiểu nỗi đau chị đang chịu, bà thấy như có lưỡi đòng đâm thấu lòng bà.
Bà đóng cửa lại, đôi mắt rưng rưng thương người con dâu quá chừng. Bà lấy cỗ tràng hạt đang đeo trên cổ ra, cỗ tràng hạt đi qua mắt bà khiến mắt bà ngừng rơi lệ. Bà chạy đến tượng Đức Mẹ lần chuỗi suốt đêm để cầu nguyện và san sẻ đau khổ với người con dâu. Đêm đó bà nguyện hứa với Mẹ rằng, bà sẽ lần hạt năm chục kinh mỗi ngày để cầu nguyện cho con dâu, xin Mẹ thêm sức chịu đựng và xoa dịu nỗi đau khổ cho con dâu.
Đêm tân hôn trôi qua, chẳng ai buồn nhắc đến. Người mẹ chồng và nàng dâu cứ âm thầm làm việc và cầu nguyện nhiều hơn. Còn người chồng thì vẫn vậy, anh ta chỉ biết tỉnh dậy ăn sáng, đến cửa hàng sửa chữa đồ điện dân dụng, chiều mới về nhà. Khi về nhà, ít là chửi, hoặc phá, hoặc đánh đập. Ra ngoài thì ít nói, chẳng to tiếng, ai cũng tưởng anh hiền lành. Dường như mỗi khi bị người ta ăn hiếp thì anh lại để dồn lại và ghi sổ rồi trút hết lên đầu vợ anh.
Cả làng, cả xã, cả gia đình chị không ai biết nỗi khổ của chị, chẳng ai hiểu gia cảnh của chị, cũng chẳng ai ngờ về tính tình lập dị, vũ phu của chồng chị. Mỗi khi chị bị bầm tím do chồng đánh, thì chị ở trong nhà, công việc ra ngoài có mẹ chồng làm giùm. Có lẽ tình yêu đẹp của mẹ chồng nàng dâu đã lấy lại sự cân bằng và khỏa lấp tình vợ chồng đầy ngang trái.
Chỉ vài người bạn thân của chị, là bạn tâm giao, là chỗ dựa tinh thần, thì chị mới thổ lộ tâm tình mà thôi. Mỗi lần nghe chị kể, họ đều nổi sùng lên và khuyên chị bỏ quách hắn đi. Nhưng mỗi lần nhắc đến chuyện ly dị là chị lại lặng thinh không nói. Chị tin rằng đây là thánh giá Chúa gửi đến để tôi luyện cho mình, để mình tập hãm mình đền tội, và cứ kiên nhẫn chịu đựng rồi chị sẽ được thưởng công. Chị tin rằng sự gì Thiên Chúa ràng buộc loài người không được phân ly, và không thể phân ly.
Thấy người con dâu không hề kêu than nửa lời, hàng ngày vẫn cùng mẹ chồng hoàn thành những công việc đồng áng, chợ búa, cơm nước tươm tất. Bà thương cô hơn tất cả những đứa con của bà. Bà cảm thấy có lỗi với con dâu biết bao. Bà cứ nghĩ, khi bà chọn người con gái ngoan hiền chăm chỉ từ gia đình gương mẫu nhất xứ, nhất làng để cưới cho con trai, mong anh sẽ thay đổi. Nhưng anh vẫn chứng nào tật đấy, thậm chí còn tệ hơn. Trước đây, khi bà chưa lấy vợ cho anh, thì anh trút cơn giận lên con chó Vàng, từ khi chị về làm dâu thì con chó xơ xác dần trở nên béo mượt, còn chị thì ngày càng xác xơ. Bà cảm thấy việc cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy là quá sai lầm.
Tất cả bà dành cho con dâu, bà trở nên niềm an ủi lớn của chị. Vậy mà Chúa cũng lấy đi, về nhà sống ba tháng, hai mẹ con như hình với bóng. Lúc chết, giữa đàn con cháu đông đúc, bà chỉ gọi người con dâu lại, nắm tay cô và nói:
- Con ơi hãy vững tin lên con nhé. Chỉ có con mới cứu được linh hồn thằng Thêm mà thôi. Chúa trao cho con thánh giá nặng nhưng Chúa sẽ thêm sức đủ cho con. Mẹ sẽ cầu nguyện cho con nhiều hơn nữa.
Bà nhắm mắt ra đi, tay trong tay người con dâu.
Chỉ với niềm tin, chị đã sống tiếp với anh được ba mươi năm với bốn người con. Cha chúng chẳng quan tâm đến việc nuôi dạy chúng, ông chỉ là tấm gương phản chiếu để chúng không bắt chước mà luôn tỉnh thức đừng trở nên như vậy. Chúng đều hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ y như tính mẹ. Chị tin rằng cha mẹ sinh con trời sinh tính. Nên mỗi khi con chị được rửa tội, mặc cho chồng và mọi người về trước, thì một mình chị vẫn bế con ở lại cầu nguyện rất lâu. Lần nào chị cũng nói:
- Lạy Chúa, Chúa biết gia cảnh nhà con. Con không thể đợi đến khi mười hai tuổi mới dâng đứa con này trong đền thờ cho Chúa được. Con xin dâng đứa con bé bỏng này cho Chúa ngay hôm nay. Xin Chúa hãy đón nhận và nuôi dưỡng chúng giùm con. Một mình con sẽ chẳng làm gì được.
Đến nay, bốn người con chị đã trưởng thành là những người công dân tốt, những người Kitô hữu thánh thiện. Mỗi lần kể về cuộc đời chị, chị đều rưng rưng nước mắt, nhưng bây giờ không còn là những giọt nước mắt của đau khổ mà là sung sướng, những kỷ niệm đau thương lại trở thành sự biết ơn sâu sắc. Mọi người nhìn vào cuộc sống của chị, người có Đạo thì nói bà sướng như trên thiên đàng, người bên Phật thì nói bà đẹp như bà tiên. Bà chẳng nói, chẳng làm điều gì lớn lao, nhưng niềm vui toát ra từ tâm hồn phúc hậu của bà đều khiến người ta buột miệng ca ngợi như vậy.
Hiếm khi chị kể cuộc đời mình cho ai. Nhưng mỗi khi gặp những người đau khổ chị lại dễ dàng dốc bầu tâm sự với mong ước an ủi họ. Nghe chị kể, cả hai rưng rưng dòng lệ, nhưng không phải dòng lệ tủi phận, căm hờn nhưng là dòng lệ vui mừng, hy vọng. Vui mừng vì đau khổ của chị đã tôi luyện để chị được trở thành bà tiên ngay tại thế trần này; còn người nghe vui mừng vì thấy những đau khổ mình đang chịu chẳng thể so sánh với đau khổ của chị. Họ hy vọng sẽ có ngày được giải thoát như chị.
Một con đường nên thánh thật can trường, và đẹp để những người vợ đau khổ muốn noi theo. Không ít lần, người nghe ngạc nhiên hỏi chị:
- Chồng chị tính tình vậy, sao chị lại có tới bốn người con với anh được?
Chị nhẹ nhàng đáp.
- Mình là vợ người ta mà.
Làm vợ ba mươi năm, không hề thấy chồng thay đổi, chị vẫn kiên trì cầu nguyện trong niềm tin ngày càng sâu sắc hơn. Anh vẫn chứng nào tật đấy, vào một trưa Chúa nhật, chẳng rõ bực tức chuyện gì ghê gớm ngoài tiệm sửa điện. Không cần mở chốt, anh lấy chân đạp tung bản lề cửa chạy vào nhà. Anh đi lấy cây gậy, rồi ca bài vọng cổ ba mươi năm.
- Mẹ cha mày, cái đồ ăn hại, chẳng làm nên trò trống gì, tao thì đánh cho mày chết….
Người vợ đã quá quen, nên khi nghe thấy tiếng đạp cửa thì đã kịp núp với cỗ tràng hạt trên tay. Anh càng tức giận thì chị càng cầu nguyện sốt sắng, chị cầu nguyện cho con quỷ hung ác xuất khỏi anh. Có những lần anh tìm thấy, kéo chị ra ngoài để đánh thì chị càng giơ cỗ tràng hạt lên cao khiến anh không thể làm gì rồi từ từ bỏ đi.
Lần này, anh đi khắp nhà, hết vòng sân mà không thấy chị. Chỉ có con chó Vàng mập mạp béo tốt đang nằm quẫy đuôi thản nhiên trước mặt anh mà chẳng cần chạy trốn như chị. Anh đứng giữa sân trưa nắng, ngước mắt lên, lấy hết sức tính bẻ gãy cây gậy, như một kẻ bại trận trước mặt con chó Vàng. Nhưng vừa giơ tay lên, thì anh ngã quỵ xuống và bất tỉnh. Thấy lạ thường, con chó hoảng sợ, đứng dậy sủa inh ỏi như là thấy quỷ ma giữa ban ngày.
Chị Hiền chạy ra, biết rằng anh bị tai biến. Chị kêu người đưa anh đi bệnh viện. Hai tuần sau anh được đưa về với đôi chân bị liệt. Kể từ ngày anh nằm viện, chị vẫn tận tụy ngày hai lần đúng giờ mát-xa chân anh. Lần đầu tiên đụng tay vào chân anh, chị mới thấy hai gót chân anh kỳ lạ. Kỳ lạ đến bất ngờ, nhưng chị cũng kịp hiểu ngay tại sao lửa sân hận trong anh lại lớn đến thế. Mỗi lần mát sa chị cố gắng xoa cho gót chân anh tròn lại. Còn anh thì vẫn nằm như vô cảm chẳng buồn nhìn chị, nhưng chị thì cứ làm hăng say như đang làm cho Chúa vậy.
Hôm nay là Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót, tuy nằm một chỗ nhưng anh vẫn biết. Anh nói với chị mời cha xứ đến cho anh gặp. Cha xứ đến nhà, anh chào cha và nói.
- Hôm nay, cha có thể đọc cho con nghe đoạn Tin Mừng gì đó có nói về tên trộm lành được không ?
Cha xứ ngạc nhiên, vì ngài đang chuẩn bị đọc ba bài đọc về Chúa Nhật kính lòng Chúa thương xót rồi khuyên giảng vài điều. Tuy nhiên ngài nhanh chóng chiều ý anh. Ngài ôn tồn nắm tay anh và nói.
- Ừ được rồi, con chuẩn bị tâm hồn để nghe nhé, cha sẽ đọc cho con.
Nghe xong đoạn Tin Mừng cha xứ thấy mắt anh đỏ hoe, ngài biết là không cần giảng giải gì nữa. Ngài nhìn anh trìu mến. Anh tiếp tục nói với ngài.
- Thưa cha, con muốn xưng hết tội lỗi của mình suốt đời con.
Cha xứ đáp “ừ” và ghé sát tai xuống để nghe anh, còn anh thì nước mắt chảy đầm đìa khi xưng thú. Cha xứ cho anh rước Mình Thánh Chúa, xức dầu xong ngài lấy khăn lau sạch những giọt lệ trên mặt anh, rồi ngài ban phép lành cho anh trước khi ra về.
Ngày hôm đó, anh không ăn, mắt không nhắm mà như nhìn đến chỗ nào xa xăm lắm. Tối đến như thường lệ, chị đến mát-xa chân cho anh. Khi đôi tay chị vừa chạm vào chân anh. Chị thấy nước mắt anh tuôn trào, không tiếng khóc, không cử động nhúc nhích, môi mím chặt, y như chị khóc trong đêm tân hôn. Nhưng mắt anh thì nhìn chị không ngơi.
Tay anh nhúc nhích, anh giơ lên làm dấu thánh giá rồi hướng tay về phía chị. Chị tiến lại đưa tay cho anh nắm. Cái nắm tay đầu tiên trong đời vợ chồng, cùng với lời xin lỗi.
- Anh xin lỗi em vì tất cả.
Chị trào khóc, siết chặt tay anh và gật đầu đồng ý.
Dứt lời, anh nhắm mắt và ra đi với nụ cười mỉm trên môi mà lần đầu tiên chị thấy.