Tản mạn đời tha hương: Công giáo với Văn hóa Việt Nam

Quang X Nguyen

Phần đóng góp bao la:

Nằm trong cái ‘gói văn hóa’ của một dân tộc, người ta luôn phải nói tới tổ chức xã hội, truyền thống gia đình, phong tục xóm làng, nghệ thuật dân gian, hệ thống giáo dục, đời sống tâm linh tôn giáo, ngôn ngữ và chữ viết…Mà mấy quốc gia láng giềng của nước ta tại vùng Đông Nam Á, hễ nhắc tới dân Việt là tức khắc họ ‘ghen tỵ’ với ta vì cái ‘báu vật’ CHỮ QUỐC NGỮ.
Cái thứ chữ viết này bà con trăm họ đều biết rõ là do công lao của các vì thừa sai Công giáo, từ Âu Châu qua góp công thành hình ra nó (nhất là với tài khéo và cố gắng của cha Đắc Lộ). Cái báu vật ấy nó sẽ nằm sâu trong tâm tưởng mọi con dân nước Việt cho đến dài lâu. Nó cũng đánh dấu một bước ngoặc trọng đại trong công cuộc phát triển nền văn minh của con cháu Lạc Hồng.

Từ đầu, ở cái thời lệ thuộc nước Tầu, dân ta dĩ nhiên chỉ biết chữ NHO (Hán tự); và rồi ráng tìm ra một thứ gì riêng tư của dân Việt, chúng ta đã tìm ra chữ NÔM (đời nhà Trần). Nhưng cả 2 thứ đều khó khăn phức tạp khôn tả.

Dĩ nhiên khi tìm sáng chế ra chữ quốc ngữ, các nhà truyền giáo nhằm tiên khởi giúp cho việc ‘dạy đạo’ được dễ dàng, nhưng rồi vô hình chung đã đem một món quà to lớn cho cả dân tộc chúng ta. Theo sử liệu, 2 nhân vật người Việt đầu tiên để lại bút tích chữ quốc ngữ là thầy giảng Văn Tín viết một thơ dài gửi qua bề trên tại Roma năm 1659. Kế đó cũng là một thầy giảng tên Thiện, cùng năm đó, viết thơ dài 2 trang gửi một linh mục thừa sai tên là Marino.

Kế tiếp là sự góp phần bổ sung của Giám mục Bá đa Lộc (Pigneau de Behainec = cha cả, từng có lăng tại Saigon), giáo sĩ dòng Tên Philippe Bỉnh (vừa là văn sĩ, thi sĩ, sử gia), và giáo sĩ ‘tử đạo’Phan văn Minh rất giỏi cả văn lẫn thơ.

Vào chi tiết Văn học:

Nói về những ‘văn hữu’ cỡ lớn của Công Giáo vào thời đầu chữ quốc ngữ, thì ta phải kể tới 2 ông Petrus Trương vĩnh Ký và Paulus Huỳnh tịnh Của.

Trương vĩnh Ký rất thông minh, giỏi chữ Hán, chữ Nôm, quốc ngữ, Pháp và La tinh cùng vài ngôn ngữ Á châu khác. Ông dịch thuật và sáng tác thơ văn hầu như không biết mệt mỏi. Suốt 35 năm liền, ông để lại một di sản văn học vĩ đại, khiến dân gọi ông là một nhà bác học.

Còn Huỳnh tịnh Của nổi tiếng với tờ báo ‘tiền phong’ Gia Định Báo. Ngoài nhiều văn phẩm, ông còn cho ra cuốn tự điển có cả chữ Nôm và Quốc ngữ, mang tên ‘Đại Nam quốc âm tự vị’. Văn hữu Phạm thế Ngũ gọi ông là một ân nhân, đã làm một việc phi thường cho nước nhà.

Nối gót 2 vị tiên phong này, ta còn ghi nhận công lao của văn sĩ Phan-xi-cô, gốc gác là một nhà sư Phật giáo. Ông viết rất nhiều, nay còn lại bài văn tế ‘Cầu hồn’ nổi tiếng; rồi tới Linh mục Lữ Y Đoan, có nhiều tác phẩm thơ giá trị, nhất là tập ‘Sấm truyền ca’. Sau đó là danh nhân Nguyễn trường Tộ, nổi tiếng với những sớ (điều trần) dâng vua Tự Đức đề nghị canh tân nước nhà. 
Những áng văn này đề cập mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia. Rồi tới Linh mục Đặng đức Tuấn, viết nhiều tác phẩm thơ văn, cùng với mấy bản điều trần giá trị lên vua Tự Đức. Rồi ‘cụ cử’ Thiện sáng tác nhiều ‘ca vãn’ tôn giáo rất hay. Kế là ông Mai lão Bạng, viết nhiều thơ nổi tiếng. Giáo sĩ Trần Lục nổi tiếng với việc xây dựng thánh đường đá Phát Diệm, nhưng cũng được biết qua những áng thơ như ‘Hiếu tự ca’, ‘Ca vè cụ Sáu’…

Nói về các văn hữu Công Giáo cựu trào, người ta kể tên các vị này: ‘Phước môn’ Nguyễn hữu Bài, ‘Tiểu cao’ Nguyễn văn Mại, ‘Đại thần’ Ngô đình Khả, ‘Giám mục’ Hồ ngọc Cẩn và ‘Linh mục’ Nguyễn văn Thích. Riêng về thơ thì chả ai quên được tên tuổi của Hàn mạc Tử.

Mới hơn thì danh sách các văn hữu Công Giáo đóng góp cho nền văn học Việt Nam sẽ rất dài: Ngoài một số rất lớn các Linh mục Tu sĩ từng xuất bản sách hay viết báo như Hồng Phúc, Phạm châu Diên, Nguyễn trọng Tước…còn có tên của các vị như Trần đình Ngọc, Nguyễn ngọc Ngạn, Cao thế Dung, Lê bá Kông, Trần phong Vũ, Quyên Di, Triều Khê v.v…

Công tác giáo dục:

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn coi trọng việc đóng góp vào việc giáo dục cho giới trẻ: Bao trường trung và tiểu học nhan nhản khắp nơi. Tại miền Nam vào năm 1969, tính ra có tới 1030 trường tiểu học của các giáo xứ, với gần nửa triệu học sinh. Các trường trung học nổi tiếng thì phải kể tới Tabert và Nguyễn bá Tòng Saigon, Dũng Lạc Hà Nội, Thiên Hựu Huế, Adran Dalat… 
Riêng về bậc đại học thì năm 1962 có Đại học Công Giáo tại Đà lạt rất thành công. Viện trưởng tiên khởi đại học Huế là Linh mục Cao văn Luận. Đại học Văn khoa Saigon có tới 6 viện trường người Công Giáo. Tên các giáo sư đại học danh tiếng một thời như LM Lương kim Định, LM Trần văn hiến Minh, LM Bửu Dưỡng, LM Hoàng quốc Trương, SH Trần văn Nghiêm, SH Nguyễn văn Kế, rồi GS Nguyễn văn Trung, GS Lê hữu Mục, GS Phạm việt Tuyền, GS Nguyễn văn Thọ…

Cũng nổi tiếng và giảng dạy về Mỹ Thuật thì có những tên tuổi như KTS Ngô viết Thụ, KTS Trần quang Đôn, KTS Đinh xuân Bình, rồi Họa sĩ Lê văn Đệ, HS Vi Vi, HS Nam Phong, HS Cao Uy…Tất cả đều rất nổi danh tại miền Nam VN.

Cũng kể vào mục Giáo dục, ta nên nhắc tới phần Báo chí Truyền thông: Đương nhiên các giáo phận thường có tờ báo riêng, rồi toàn quốc cũng có báo lớn như Thẳng Tiến, Sacerdos, Tinh Thần, Hòa Bình, Hiệp Nhất, Sống Đạo… (phong phú về cả nguyệt san, tuần báo hay nhật báo).


Tất cả các đan cử trên đây chỉ là con số tượng trưng nhỏ bé. Thật sự còn danh sách thật dài những chứng minh cụ thể nói lên sự góp phần to lớn và lâu dài của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Thật ra, những đóng góp giáo dục về mặt trí thức thì coi như ‘hữu hình’, có thể nói tới những con số và tên tuổi, nhưng về mặt ‘vô hình’, tâm linh, thì phải nghĩ tới những hậu quả cao quý của những giáo huấn tôn giáo nơi đạo Công Giáo: Theo đạo Chúa là đón nhận niềm tin linh thiêng, là cố gắng sống những giới luật tuyệt vời của Chúa và Giáo hội (qua các giới răn căn bản). Những thứ này hun đúc huấn luyện nên những con người cao đẹp về tinh thần, sống vị tha bác ái, làm gương tốt cho tha nhân, tuân giữ mọi kỷ cương thể chế của xã hội. Người ta gọi họ là những ‘con chiên ngoan đạo’, xây dựng cộng đồng xã hội vô cùng tuyệt hảo…

Nghĩa là với ngàn vạn người Công Giáo tốt, dân tộc Việt Nam đã và đang làm vang danh giống nòi, tổ tiên Lạc Hồng.

Qua phần đóng góp nghệ thuật:


Bây giờ nói tới công tác của các ca nhạc sĩ Công Giáo: Thật ra từ các ca đoàn nhà thờ, bao ca nhạc sĩ đã vươn lên và thành công lớn, góp phần không nhỏ vào chuyện nghệ thuật trình diễn trong đại chúng.

Bắt đầu với thời tiền chiến, nhạc sĩ tài hoa Hùng Lân đã viết bài ‘Hè về’ và ‘Khỏe vì nước’ được cả nước cùng hát. Kế đó là bản ‘Việt Nam minh châu trời đông’ xém được chọn làm quốc ca. Thêm vào đó là ca khúc ‘Rạng đông’ khá thịnh hành, rồi tập nhạc ‘Vui ca lên’ dành cho các thiếu nhi. Riêng về thánh ca thì bản dịch ‘Đêm thánh vô cùng’ đang được xử dụng rộng rãi trong nước cũng như hải ngọai ở mỗi mùa Giáng sinh. Hùng Lân sáng lập và làm đoàn trưởng nhạc đoàn ‘Lê bảo Tịnh’ vang danh một thời. Ông cũng là giáo sư âm nhạc trường Chu văn An, và cho in tập lý thuyết âm nhạc tiên khởi ‘Cây đàn sống’ năm 1949, và sau đó là bộ sách ‘Giáo khoa âm nhạc’. Dân chúng nhớ ơn ông như một trong các nhạc sĩ tiên phong khai phóng nền âm nhạc và ca hát bằng Việt ngữ, với gia tài hàng trăm ca khúc đủ các thể loại.
Vào Nam năm 1954, ông tiếp tục dạy nhạc tại trường ‘Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ’ tại Sai Gon. Chính phủ cũng mời ông làm chủ sự phòng phát thanh học đường thuộc bộ giáo dục. Và rồi tổ chức chương trình ‘Đó vui để học’ trên đài truyền hình quốc gia từ năm 1969. Sau cùng, ông được mời dạy môn ‘sư phạm âm nhạc’ tại viện đại học Đà Lạt. Ông cũng để lại những tác phẩm như ‘Nhạc lý toàn thư (1960); ‘Dân ca Việt Nam’(1972); ‘Thuật sáng tác & Âm nhạc thực hành’ (1974)… Ông qua đời năm 1986 trong khi đang còn dạy nhạc tại tư gia.

Nối tiếp Hùng Lân, người ta thấy có nhạc sư Hải Linh, nổi tiếng nhất với những bài hát đạo như ‘Hang Be Lem’, Tán tụng hồng ân’, ‘Tiếng nhạc oai hùng’ và Nữ vương hòa bình’. Ông cũng viết nhiều bản hợp xướng như ‘Đà Lạt trăng mờ’, ‘Hương quê’, ‘Lòng mẹ’, ‘Chinh phụ ngâm’…rất phổ thông. Năm 1956, sau khi tốt nghiệp nhạc tại Pháp, ông dạy môn hợp ca tại viện quốc gia âm nhạc, rồi Đại học Đa Lạt. Di tản qua Mỹ, ông cũng sinh hoạt âm nhạc rất thành công cho tới ngày qua đời (1988).

Linh mục Tiến Dũng cũng được nhắc tới nhiều về kiến thức âm nhạc: Học nhạc tại Roma xong, ngài về liên tục dạy nhạc nhiều nơi, kể cả trường quốc gia âm nhạc, rồi làm khoa trưởng nhân văn nghệ thuật tại đại học Minh Đức. Ngài lập trường ‘Suối nhạc’ năm 1968 dạy mọi thứ về âm nhạc. Ngài qua đời năm 2005.

Bây giờ ta nói tới một số ca nhạc sĩ Công Giáo khác đã và đang nổi danh (không kể các vị chỉ sinh hoạt về thánh ca): Trần thiện Thanh (Nhật Trường), Hoàng Oanh, Hoài Bắc, Trúc Giang, Thu Hồ, Đức Huy, Ngọc Huệ, Vũ Khanh, Khánh Ly, Như Mai, Từ công Phụng, Châu đình An, Anh Bằng,Việt Dũng, Tuấn Vũ, Ngọc Lan, Trúc Hồ, Anh Dũng, Kim Anh, Vũ thành An, Tuấn Đức, Trúc Sinh…Và còn nhiều nữa.

Tất cả đã tỏ ra yêu nghệ thuật trình diễn, muốn góp phần vào nền văn hóa Việt Nam, nhất là vẽ lên và giữ lại những sắc thái và hình ảnh Việt Nam qua âm nhạc, kể cả phần ca múa đi kèm.

Mong sao những ước mơ cao đẹp của các nghệ sĩ Công Giáo còn tiếp tục khởi sắc, chung tay đẩy mạnh và bảo tồn những thứ cao quý nhất của dân Việt.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Bài liên quan: