Tưởng nhớ Giáo sư Nguyễn Văn Trung (1930 - 2022) - Tác giả: Nguyễn Vy Khanh

Lan Mary
Theo tin từ gia đình, Giáo sư An-tôn Nguyễn Văn Trung vừa qua đời ở Brossard, tỉnh bang Québec, Canada lúc 21:30 tối ngày 19-10-2022, thọ 92 tuổi. Xin mọi người hiệp ý cầu nguyện, xin Thiên Chúa đón nhận linh hồn Antôn vào cõi lòng yêu thương đời đời của Chúa và xin Chúa an ủi thân quyến của Giáo sư. Để cùng thắp lên nén hương lòng tri ân và tưởng niệm, Văn Thơ Công Giáo xin gửi đến bạn đọc khắp nơi những bài viết đầy trân trọng. NGUỒN:

Theo tin từ gia đình, Giáo sư An-tôn Nguyễn Văn Trung vừa qua đời ở Brossard, tỉnh bang Québec, Canada lúc 21:30 tối ngày 19-10-2022, thọ 92 tuổi. Xin mọi người hiệp ý cầu nguyện, xin Thiên Chúa đón nhận linh hồn Antôn vào cõi lòng yêu thương đời đời của Chúa và xin Chúa an ủi thân quyến của Giáo sư.

Để cùng thắp lên nén hương lòng tri ân và tưởng niệm, Văn Thơ Công Giáo xin gửi đến bạn đọc khắp nơi những bài viết đầy trân trọng.

Ban Biên tập VTCG


Giáo sư An-tôn Nguyễn Văn Trung vừa qua đời ở Brossard, tỉnh bang Québec, Canada lúc 21:30 tối ngày 19-10-2022, thọ 92 tuổi.

Chúng tôi từng theo học giáo sư thời sinh viên Cử nhân giáo khoa Triết Tây ớ Đại học Văn khoa Sài gòn và Thầy đã bảo trợ cho luận án Cao học Triết của tôi. Sau năm 1975, tôi gặp lại Thầy lần đầu khi đến nhà tặng Thầy cuốn tuyển tập đầu Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng năm 1996 trong đó có đăng bài bà Thuỵ Khuê phỏng vấn "GS Nguyễn Văn Trung và Lục Châu Học" (cùng tập có bài Miền Nam Khai Phóng của tôi). Từ đó cho đến khi tôi về hưu năm 2011 thì trong nhiều năm gần như mỗi tuần Thầy trò chúng tôi vẫn gặp nhau. Trước khi Thầy sang Canada năm 1994 thì NQB, trưởng nam của Thầy, vẫn hay gặp tôi ở thư viện Bộ thuộc chính phủ Québec lúc B làm urbaniste ở đó và có đến nhà chúng tôi giới thiệu cuốn Câu Đố Thầy vừa xuất bản trong nước. Tôi đã giúp Thầy trong một số dự án, công việc dù đôi khi không được như ý nguyện của Thầy vì "lòng người", "chính trị", v.v.: dự án thư viện Đ chủng viện SG, xuất bản sách của Thầy, lập nhóm nghiên cứu, v.v. Tôi cũng làm trung gian giúp xuất bản Lục Châu Học và một số sách khác ở trong nước (cũng như giúp một số nhà biên khảo về văn học miền Nam lục tỉnh,...).

Tôi đang soạn một biên khảo về nhà văn hóa Nguyễn Văn Trung, chưa xong thì Thầy đã bỏ trần gian về với Chúa. Trong văn học miền Nam 1954-1975 (1916, tb 2019), tôi đã viết khá nhiều về các sinh hoạt và tác phẩm của giáo sư, ở đây xin ghi lại đôi phần viết về nhà Phê bình văn chương và Nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Trung trước và sau 1975.

1 - Thời văn học miền Nam 1954-1975


Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26-9-1930 tại tỉnh Hà Nam, giáo sư triết và văn học, và là một nhà phê bình văn học hiện đại thế hệ mới sau 1954, với các bút hiệu khác: Hoàng Thái Linh, Phan Mai. Năm 1950 được Học bổng của giám mục Hà Nội, ông du học ở Toulouse rồi sang Bỉ học đại học Louvain, đậu cử nhân triết học, theo ban tiến sĩ triết học (luận án Tiến sĩ triết học trình năm 1961). Cuối năm 1955 về Sài gòn, dạy triết ở trường Chu văn An. Từ 1957, dạy triết tại Đại học Huế và từ 1961 dạy Triết và Văn ở Đại học Văn Khoa Sài gòn, trưởng ban Triết và Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ủy viên Ủy ban Dịch thuật thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa. Sau 1975, ông chuyển sang nghiên cứu văn hóa miền Nam lục tỉnh (Lục Châu Học) và năm 1994, định cư ở Montréal (Canada). Ông từng cộng tác, đăng bài trên các nhật báo Sống Đạo, Tin Sáng, Dân Chủ Mới, Sống Đạo, Hoà Bình,... các tạp chí Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, v.v...và là chủ biên các tạp chí Đại Học, Hành Trình và Đất Nước.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung có các công trình biên khảo, nghị luận về văn học và liên hệ đến triết học, xã hội và tôn giáo, phần lớn đều do nhà xuất bản Nam Sơn ở Sài Gòn ấn hành. Bộ Lược Khảo Văn Học (1963-) là công trình quan trọng nhất về phê bình và lý luận văn học ở miền Nam, xuất bản sau tập Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết (1962). Trước 1975, giáo sư đã có các tác phẩm xuất bản:

Về triết học: Triết Học Tổng Quát (Vĩnh Bảo, 1957), Danh Từ Triết Học (chung với LM. Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM. Xuân Corpet; Huế: Đại Học, 1958), Biện Chứng Giải Thoát trong Phật Giáo (Đại Học, 1958), La conception bouddhique du Devenir: essai sur la notion de devenir selon le Sthaviravâda (Thèse, 1959. 164 tr.; Xã Hội, 1962), Ngôn Ngữ và Thân Xác (Trình Bày, 1968), Ca Tụng Thân Xác (Nam Sơn, 1967), Hành Trình Trí Thức của Karl Marx (1-"con người và cuộc đời"; Nam Sơn 1969), Đưa Vào Triết Học (Nam Sơn, 1970), các tập Nhận Định I ("văn-chương, giáo-dục, triết-lý, tôn-giáo", Nguyễn Du, 1958), II (Đại Học, 1959), III (Nam Sơn, 1963), IV (Nam Sơn, 1966), V (Nam Sơn, 1969) và VI (Nam Sơn, 1972), và các sách giáo khoa: Luận Lý Học (Á Châu, 1957; Nam Sơn, 1960), Đạo Đức Học (Á Châu, 1957), Luận Triết Học (tập I, Nam Sơn, 1960), Phương Pháp Làm Luận Triết Học (Nam Sơn, 196?),

Về văn học: Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết (Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962; Nam Sơn, 1965), Lược Khảo Văn Học, tập I (Những vấn đề tổng quát, Nam Sơn 1963), II (Ngôn ngữ văn chương và kịch, 1965), III (Nghiên cứu và phê bình văn học, 1968) [ngoài ra còn có thêm tập Lược Khảo Văn Học: tài liệu đọc "Dành riêng cho sinh viên Đại học Văn khoa niên khóa 1965-1966"], Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại (Nam Sơn, 1963) (16), Nhà Văn Người Là Ai Với Ai? ("Văn chương và chính trị", Nam Sơn 1965), Chữ và Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc (Nam Sơn, 1974), Trường Hợp Phạm Quỳnh (phỏng vấn những người viết sách báo đương thời với Phạm Quỳnh; Nam Sơn 1974), Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về Dân tộc, Trí Đăng, 1972), Vụ Án Truyện Kiều (tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, xuất bản năm 1972) (17).

Ngoài ra, ông còn viết Góp Phần Phê Phán Giáo Dục và Đại Học (Trình Bày, 1967), Đại-Học và Phát Triển Quốc Gia ("Phụ lục: Phác họa dự án cải tổ Đại học Văn Khoa", Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn, 1967. 71 tr.), "Xã hội chủ nghĩa trước vấn đề độc lập quốc gia và giải phóng dân tộc" (ronéo, 1967) và là đồng tác giả các tuyển tập văn học Chân Dung Nguyễn Du (Nam Sơn, 1960) và về chính trị xã hội: Người Công Giáo Trước Thời Đại (nhiều tác giả; Đạo và Đời, 1961), Lương Tâm Công Giáo và Công Bằng Xă Hội (Nam Sơn, 1963), v.v.

Hành trình trí thức của giáo sư Nguyễn Văn Trung trãi qua nhiều giai đoạn: từ cuối thập niên 1950 đến biến cố 1-11-1963, ông viết và giới thiệu các lý thuyết và triết học Hiện sinh thuần lý hoặc áp dụng cho văn chương, đã chọn "Sartre làm mẫu mực cho mình"; từ sau 1964, ông "từ bỏ tất cả những gì đã viết trước đây về hiện sinh theo chiều hướng triết lý thuần túy"("Sartre trong đời tôi". Bách Khoa, 265 & 266, 15-1-1968), nhìn nhận "thật là chướng nếu cứ tiếp tục trình bày một thứ biên khảo sáng tác thoát ly viễn mơ (...) tôi thấy không thể giữ thái độ trên được nữa" (Lời Nói Đầu. Nhận Định 5), ông dấn thân xã hội chính trị, đã phê phán Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký. Trong chiều hướng thời thượng đó, trong Chữ Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc (1974), giáo sư Trung đã đưa ra luận điểm bôi đen thành quả đóng góp với dân tộc, cho rằng việc "sáng lập và sử dụng chữ quốc ngữ nhằm mục đích cô lập người công giáo Việt Nam với cộng đồng dân tộc bằng cách xóa bỏ chữ Nho, chữ Nôm,..." (18). Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy cũng xuất hành từ những luận điểm của giáo sư Trung trong các tác phẩm này để làm luận án đại học và biên khảo về Trương Vĩnh Ký và văn học miền Nam!

Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết trình bày Tổng quát về văn chương, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết bàn về nhân vật và con người trong tiểu thuyết và không gian của tiểu thuyết. Phụ lục nói về quan niệm tiểu thuyết mới phủ nhận con người của Nathalie Sarraute và quan niệm truyện là thơ của Michel Butor. Mục đích để "giới thiệu một phác họa những nét lớn của một quan niệm phê bình văn học" "nhấn mạnh vào sự kiện đa nguyên về thẩm mỹ của tiểu thuyết", với một cái nhìn văn học tiến bộ, hiện đại với viễn tượng, kết quả không nhất thiết tính toán trước được, theo ông, "một tác phẩm nghệ thuật cũng có một công dụng hữu ích, nhưng công dụng ở đây là cái kết quả đến sau, không phải là bản chất, yếu tính của nghệ phẩm. (...) Đó là sự khác biệt giữa ý hướng nghệ thuật và ý hướng cần lao; cần lao giống nghệ thuật ở điểm cả hai đều nhằm biến đổi, sáng tạo, nhưng khác nhau về mục đích sáng tạo. Một đằng nhằm công dụng ích lởi, một đằng nhằm thưởng ngoạn. Nghệ thuật là một thứ chơi, chữ chơi hiểu theo nghĩa tổng quát của nó chỉ thị một hoạt động tự nó có một mục đích tự tại: chơi để chơi. Vì nếu chơi mà kiếm lợi sinh nhai thì không còn phải là chơi nữa..." (tr. 18).

Theo giáo sư, tiểu thuyết phải là sản phẩm của tưởng tượng: "Có một sự khác biệt về ý hướng viết giữa một nhà văn và một nhà sử học hay một nhà suy tưởng, vì vũ trụ của văn chương không phải là vũ trụ của sự kiện, chân lý và hành động, mà là vũ trụ của tưởng tượng" (tr. 48). Sau đó ông đi xa hơn khi bàn đến ngụy tín trong văn chương: "khi viết, tôi chỉ như bơi trong vũ trụ của tưởng tượng mà vẫn tưởng nó là thật. Do đó không thể viết, nếu ý hướng viết không thiết yếu bao hàm cái mà J.P. Sartre gọi là "Ngụy tín" (La mauvaise foi), nghĩa là tự dối mình mà không biết, một nhầm lẫn mà không biết là mình nhầm lẫn; vì ngụy tín chính là một niềm tin (La mauvaise foi est foi)... Có thể nói: viết là một cách phản bội thực tại, vì đằng sau những chữ có vẻ linh động, quyến rũ, người ta chỉ tìm thấy một trống rỗng càng ngày càng sâu khi càng đi vào mô tả. (...) Cho nên mọi sự xẩy ra đối với người viết cũng như người đọc, nếu không có thái độ giả vờ là niềm tin đó, không thể có tiểu thuyết. Và do đó, có thể nói: viết, đọc tiểu thuyết là một quên lãng, một đãng trí hiểu theo nghĩa rất mạnh của nó" (tr. 50-51). Khi viết về Michel Butor, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã có nhận định gây chú ý: "Thơ vừa có thể là thực, vừa là không thực. Thực vì bắt đầu từ cuộc đời hằng ngày, không thực vì bao giờ cũng vượt xa nó. Thơ đưa chúng ta vào một thế giới huyền ảo, sâu xa của tưởng tượng, tôn giáo, thần thoại. Thế giới đó không phủ nhận cuộc đời hằng ngày nhưng chỉ khác biệt thôi..." (19).

Những tư tưởng, lý luận phân tích văn học của giáo sư rất mới vào thời đó, và đã bị một số phê bình của các nhà văn căn cứ trên cứu cánh của tiểu thuyết và văn chương phải có đóng góp cho xã hội, văn học, và nhà văn có vai trò tích cực và quan hệ xã hội!

Bộ Lược Khảo Văn Học (1963-) gồm 3 tập: 1- Những vấn đề tổng quát, 2-Ngôn ngữ văn chương và kịch và 3-Nghiên cứu và phê bình văn học. Khi mới xuất bản đã chinh phục giới nghiên cứu và phê bình văn học ở miền Nam. Ngay Lời nói đầu, ông cho biết "muốn tìm hiểu văn chương, thiết tưởng có thể lấy ngôn ngữ làm khởi điểm suy tưởng nhằm giải đáp những vấn đề văn chương đặt ra. Sáng tác văn chương, làm văn học là đụng chân tới tiếng nói, chữ viết. Do đó vấn đề nền tảng sẽ là xác định ngôn ngữ của văn chương khác với ngôn ngữ hằng ngày hoặc ngôn ngữ của biên khảo như thế nào" và "ngôn ngữ văn chương, nghệ thuật luôn luôn là một ngôn ngữ gián tiếp: nói bằng cách không nói ra, hoặc cái nói, viết ra chỉ là dấu hiệu của cái không nói ra. Ngôn ngữ gián tiếp là ngôn ngữ ám chỉ, là tiếng nói câm lặng (Viết là gì). Từ sự phân biệt nền tảng ấy chúng ta có thể tìm thấy một hướng đi để nhìn những vấ đề nội dung, hình thức, tương quan giữa văn học và xã hội, giữa luân lý và văn học (chương Viết cái gì), hoặc vấn đề liên đới 'dấn thân' của nhà văn trong xã hội (chương Tại sao viết), vấn đề qui định những điều kiện sáng tác xây dựng tác phẩm (Viết thế nào) và sau cùng vấn đề mục đích của văn học (Viết cho ai)" (tr. 13-14).

Theo giáo sư, nội dung và hình thức tuy hai mà một không thể tách biệt nhau, cũng như văn chương và xã hội có mối tương quan mật thiết, do đó nhà văn có nhiệm vụ vượt lên hoàn cảnh của riêng mình để hướng về một sứ mạng văn hóa cao hơn: "Nhà văn viết là để thực hiện một sứ mệnh cao cả. Do đó, văn chương bao hàm tính chất nhân bản, hay chứa đựng một chủ nghĩa nhân đạo. Nhân bản vì văn chương biểu lộ một niềm tin ở con người, tôn trọng con người chống lại mọi hình thức chà đạp, bóc lột, bóp nghẹt, khinh miệt con người.

Văn chương là một sự đối kháng và nhà văn là một người phản kháng. Dĩ nhiên nhà văn chỉ thực hiện được sứ mệnh trên ở một mức độ cao nếu nhà văn tha thiết với con người gắn bó nhiều với cuộc đời, đồng thời có thể cảm trước được những điều người khác chỉ mơ hồ cảm thấy, biết trước được hướng phải tiến lên mà người khác chỉ lờ mờ nhìn thấy"
(tr. 152), sau khi đã khẳng định: "không thể đòi hỏi ở nhà văn một thái độ dấn thân vào đời giống như thái độ mà nhà chiến tranh hay trí thức... mà là vấn-đề thực hiện ý thức đó thế nào" (tr. 113).

Ngoài ra trong tập 1 của bộ biên khảo này, giáo sư Trung đã đề cao phép "phê bình bút pháp" mà theo ông, " Hình thức văn chương là cách tổ chức, xây dựng ngôn ngữ để biểu hiện nội dung văn chương. Nó bao gồm một sự chú ý sáng tạo, xếp đặt hình ảnh những chữ, những câu, những đoạn theo một cơ cấu nào đó" (tr. 71); "Hình thức trong văn chương là kiến trúc của tác phẩm. Nó qui định những tương quan giữa các phần, bộ phận đó với nhau..." (tr. 72),... Trong phần cuối tập 3, sau khi đã giới thiệu các phương pháp phê bình văn học thường dùng hoặc chưa được sử dụng ở Việt Nam, giáo sư Trung mở ra, xem "phê-bình là một sáng tạo" với 2 kết luận: 1-"Tác phẩm, khi đã hoàn thành đối với tác giả, tách rời tác giả, trở thành một sự vật độc lập, và tuy bên trong nó vẫn chuyên chở một ý nghĩa, lời gửi nào đó của tác giả, đối với độc giả, bây giờ, nó cũng chỉ còn là một hệ thống những tín hiệu mà bản chất là hàm hồ, nghĩa là có thể chuyên chở nhiều ý nghĩa khác mà người đọc, nhà phê bình có thể gán cho nó", và 2-" Người đọc, nhà phê bình khi đi tới tác phẩm, chỉ còn là một hệ thống tín hiệu có thể mặc nhiều ý nghĩa, không thể tránh được một sự cần thiết đứng ở một vị trí quan điểm nào đó để lãnh hội tác phẩm (...) tác phẩm không những chỉ là tín hiệu, mà còn là vết tích" (...) nhà phê bình không phải chỉ là nhắc lại " tác giả nhưng còn là một sáng tạo (...) Một tác phẩm chỉ sống mãi nếu có khả năng đón nhận những sức sống mới mà những thời đại tiếp sau bồi bổ cho. Nhưng chỉ có khả năng đón nhận cái mới nếu nó không khép kín, hoàn tất. Cho nên tác phẩm sống là một công trình luôn luôn còn đang hình thành đối với người đọc và nhà phê bình..." (tr. 350-357).

Tập 3 về Nghiên cứu và phê bình văn học, giáo sư trình bày và hệ thống hóa các phương pháp phê bình hiện đại nhất vào thời đó, như phê bình văn bản của J-P Sartre và Bachelard (Trước đó, đã đăng tải tiểu luận với tựa "Những quan niệm phê bình mới", Nghiên Cứu Văn Học, số 7-1968). Với Sartre, phê bình văn học theo hiện tượng luận làm công việc phân tách, trình bày kiến trúc xây dựng tác phẩm, bút pháp: một lối chấm câu, xuống hàng, một cách tạo hình ảnh, một quan niệm sử dụng những yếu tố ngôn ngữ, ngữ pháp (dùng động từ, tĩnh từ hay trạng từ v.v...), một cách lựa chọn ẩn dụ, hoán dụ, so sánh,v.v...; sau đó sẽ khai triển ý nghĩa hiện sinh của bút pháp hiểu như một lối viết riêng biệt, là chủ ý chọn lựa của nhà văn, đồng nghĩa với những ý hướng căn bản về thái độ cảm nghĩ, ứng xử trước cuộc đời. Như vậy, với hiện tượng luận hiện sinh mỗi tác phẩm văn học đã là một cấu trúc ý hướng hiện sinh trọn vẹn và đủ đầy. Phân tích văn học vì thế là hành vi phân tích ý hướng hiện sinh được phóng chiếu vào trong văn bản, hoặc ngược lại, từ văn bản ra.

Các bài khác ông viết về cơ cấu luận: "Tìm hiểu cơ cấu luận như một phương pháp, một triết thuyết và đặt vấn-đề tiếp thu" (Bách Khoa, số 293-294, 15-3 & 1-4-1969; Nhận Định V); "Phê bình mới, phê bình cũ" (Bách khoa, số 381, 15-11-1972); "Phác họa hiện tượng luận về thẩm mỹ học của tiểu thuyết"của Nguyễn Văn Trung (Đại Học, số 2, 1961),...

Các tập Nhận Định theo hình thức của các tập Situations của Jean-Paul Sartre, Actuelles và Carnets của Albert Camus, v.v. Tập I (1957-8) đến tập VI (1972) là những tạp văn triết lý về những vấn đề triết học, xã hội và văn học, mỗi tập chủ đề riêng, với phương pháp nhận thức và tra hỏi, đặt vấn đề, "... một nỗ lực giải quyết những thắc mắc của một người trong hoàn cảnh riêng biệt của mình (...) như tiếng chuông thức tỉnh tôi tự đi tìm cho mình một giải đáp phù hợp với những thắc mắc riêng tư của tôi (... và) để mỗi người sẽ nhận định và tìm cho cuộc đời mình một ý nghĩa, vì không ai có thể làm hộ ai, mỗi người trách nhiệm đời mình" (NĐ I, tr. 2,3). Các chủ đề trùng hợp ở nhiều tập như văn hóa, trí thức nhưng có thể ghi nhận các đề tài chính của tập I là văn hóa và chính trị, tập II là văn hóa, sứ mạng người trí thức, liên hệ nam nữ, tập III là trí thức, thân xác, tập IV như phụ đề ghi là "chiến tranh, cách mạng, hòa bình", và tập V là trí thức, phản kháng, văn hóa dân tộc, v.v. Vì là nhận định cho hôm nay, trước mặt, cho nên sau vài năm, cái nhìn đã có thể khác, như giáo-sư đã viết ngay trong tập II "Nhìn lại một chặng đường 'nhận định' rất nhiều ý kiến nêu lên trong tập bây giờ tác-giả đã phủ nhận hoặc thấy phải nhận định lại, bổ sung thêm..." (II, tr. 8).

Nhiều bài viết của giáo sư trên các tạp chí Sáng Tạo, Hiện Đại, Bách Khoa, v.v., một số về sau được tuyển lại xuất bản, ở đây xin ghi nhận một số bài đã góp phần phổ biến các phương pháp nhận định, phê bình văn chương hiện đại:

Tìm hiểu tác phẩm văn nghệ; Văn chương Hiện sinh; "Tiểu thuyết mới" trong văn chương Pháp ngày nay; v.v. Và phổ biến triết học hiện sinh, nhất là của J.P. Sartre: Vấn đề giải thoát con người trong Phật giáo và tư tưởng của J.P Sartre; Những tình bạn dang dở; Văn chương và siêu hình học; Thi ca và triết học; Văn chương hiện sinh; Luân lý và văn học; Sartre trong đời tôi; Cái nhìn hay đám cưới với cuộc đời; Tưởng niệm Camus; Vài cảm nghĩ về tình cảm phi lý của kẻ lưu đầy; Cuộc đời như một tra hỏi; Đọc vũ trụ chữ nghĩa của J.P Sartre; Quê hương và lưu đày, giới thiệu Camus. Người phản kháng; Những tình bạn dang dở; Triết học hiện sinh, giờ thứ 25 của của triết học Tây phương; Dịch và giới thiệu: Người đàn bà ngoại tình của Camus (Sáng Tạo, b.m., số 6, 12-1960 & 1-1961), v.v.

Trong Ca Tụng Thân Xác, để thể chất hóa con người, giáo sư sử-dụng hiện tượng luận để phân tích thân phận con người như là thân xác, ngũ giác, hơn là siêu hình, trí thức,... Dùng khái niệm "thân xác" (Ca Tụng Thân Xác, 1966; "Thân xác và nghệ thuật nhân cái chết của M. Monroe" NĐ III, "Ảo ảnh Thanh Thúy" NĐ IV,...), "ngụy tín" (Trường Hợp Phạm Quỳnh. 1974) để phê phán những kẻ tự cho là duy tâm nhưng theo giáo sư thật ra cũng theo duy vật.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung là người đã sớm nêu lên và đặt vấn đề triết học trong tương quan với văn chương. Trong bài "Văn chương và siêu hình học", dưới bút hiệu Hoàng Thái Linh, ông viết: "... Để giới thiệu văn chương Âu châu hiện đại nói chung và văn chương Pháp nói riêng, chúng tôi chọn đầu đề "Văn chương và siêu hình học" vì nét đặc biệt của văn chương đó là tính cách triết lý của nó. Dĩ nhiên, những A. Camus, J.P. Sartre, André Malraux... mỗi người có sắc thái riêng, không ai gống ai, nhưng tất cả đều gặp nhau trên một vài nét chính. Lời nói, giọng nói của họ khác nhau, nhưng hình như họ đều bắt đầu từ khởi điểm, cùng bàn đến một vấn đề... Tháng chạp năm 1946, trong buổi diễn thuyết do Ủy Ban Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tổ chức ở giảng đường đại học Sorbonne, Malraux đã nói: "Cuối thế kỷ XIX, Nietzsche lớn tiếng tuyên bố Thượng đế đã chết với một giọng bi đát. Và ai cũng hiểu câu đó muốn nói gì; câu đó có nghĩa là từ đây người sẽ làm chủ cuộc đời mình vì Thượng đế đã chết. Nhưng ngày nay, vấn đề đặt ra cho chúng ta là ở trên mảnh đất Âu châu cũ kỹ này, con người đã chết hay chưa?". Câu hỏi trên của A. Malraux đưa chúng ta vào bầu không khí chung của văn chương Âu châu. Đó là một bầu không khí thắc mắc, hoài nghi, băn khoăn, muốn đặt vấn đề lại những giải pháp đã biến thành tin tưởng của những thế hệ trước... Đời sống có ý nghĩa gì không, đời đáng sống hay không đáng sống "trước những cái vô lý cuộc đời? Cái gì làm cơ sở cho hành động. Một nhân bản xây trên những nhận xét đó phải như thế nào? Đọc chuyện, chúng ta chỉ thấy hiện lên trong trí những câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời, cái chết, mối tương quan giữa người với người, với vũ trụ. Tiểu thuyết vì thế không còn tính chất lãng mạn, xa thực tế, thoát ly. Văn chương hiện đại Pháp nhập thế (engagée) không phải để xoa dịu, giải trí nhưng là gây thắc mắc, suy nghĩ để nhận định một thái độ sống... Thái độ đó bao hàm một nhân bản mới. Văn chương không còn là mô tả, tri thức, nhưng là một giải phóng, muốn bênh vực con người trước mọi hình thức chà đạp, giản lược con người vào phương tiện, đồ dùng. Chính trong hoàn cảnh bi đát đó, con người mới khám phá thấy người đồng loại cùng chung một thân phận, một kiếp người. Văn chương không còn phải là tiếng nói của cảm xúc cá nhân, nhưng là tình yêu bao chùm cả loài người, lo lắng số phận cả nhân loại và bảo vệ mhững giá trị phổ biến trong con người..." (20).

Giáo sư cũng đã hơn một lần đề cập đến thái độ ngụy tín (trong Đưa Vào Triết Học,...). Trong bài "Nhà văn nhìn vào mình hay từ hiện tượng bè phái đến văn chương vô danh" (Nghiên Cứu Văn Học, số 3, 1968, tr. 129), ông tả thái độ ngụy tín là: "không dám nhìn vào mình để tra hỏi về chính việc viết văn, bình văn của mình là vì muốn được an tâm, yên ổn để sáng tác, phê bình trong những quan niệm niềm tin đã trở thành thiên kiến, giáo điều. Chính ước muốn được an tâm là yếu tố "phản kháng", nói theo ngôn ngữ của phân tâm học, ngăn chặn nhà văn, nhà phê bình tự kiểm thảo để biết mình là ai, đối với ai để có cái nhìn đích thực về việc làm của mình, không còn tự lừa dối bằng những niềm tin cuối cùng chỉ là ảo tưởng. Thái độ viết văn của mình, thái độ không chấp nhận người khác của mình vì người khác cũng không chấp nhận mình. Nên thay vì chỉ biết nhìn nhau để rồi không chấp nhận nhau, hãy trở về nhìn vào mình hay cùng nhau nhìn về giới mình để có thể thấy biết đâu là hiện tượng bè phái, những cuộc bút chiến. Sự tự lừa dối mình của nhà văn bằng những ảo tưởng có thể hoàn toàn vô thức hoặc ở khởi điểm, có biết nhưng về sau, quên đi và cũng trở thành vô thức, và khi người ta phê bình thì lại nổi giận vì đã coi là quan trọng điều mình viết. Đó là thái độ ngụy tín".

Nguyễn Trọng Văn dù chống đối thái độ chính trị của giáo sư Nguyễn Văn Trung nhưng trên Bách Khoa số 264 (1-1-1968) trong bài "Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung" đã nhận định rằng: "Ông Trung là người có công trong việc giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Tây Phương... Ông trình bày một cách gọn gàng, mạch lạc. Những triết học hiện sinh, những danh từ có tính cách văn nghệ, triết lý dần được du nhập và phổ biến. Những Hiện tượng luận, đối thoại, tha nhấn, phản kháng, vong thân, ngụy tín, huyền thoại, thông cảm, những Alain Robbe Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Sartre, Camus.. đã được Nguyễn Văn Trung trình bày hàng chục năm trước trong Sáng Tạo, Bách Khoa, Thông Cảm, Thế Kỷ 20,...".

Sinh hoạt học thuật và văn nghệ ở miền Nam thời 20 năm này, Nguyễn Văn Trung đã là một thành tố căn bản, vừa có tính cách chuyên chở ý tưởng trào lưu mới vừa nguồn tư tưởng vừa là một thành phần xúc tác quan trọng cho một số sinh hoạt báo chí, biên khảo, phê bình và sáng tác văn nghệ như về hiện sinh, dấn thân, chính trị xã hội,... Với một văn phong rành mạch, cụ thể, trực diện, v.v., với một thái độ trí thức, thao thức, nhìn xa, chấp nhận trao đổi,..., những gì ông viết và thuyết giảng đã thuyết phục, kêu gọi lên đường và hơn một thế hệ trẻ đã nhận chịu ảnh hưởng từ ông. Chúng tôi sẽ trở lại với các công trình nghiên cứu và lý luận văn học của ông trong phần Văn học hải ngoại.

2 - Thời hải ngoại


Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã là người năng nổ nhất ở miền Nam trong việc hướng dẫn, vận động cho một nền văn-nghệ mới và hiện-đại hơn. Với tư cách một trí thức nhập cuộc, ông đặt lại hoặc nêu vấn-đề, phê-bình với luận cứ, nhưng ông cũng bị nhiều hiểu lầm vô tình hoặc cố ý.

Sau ngày 30-4-1975, ông chuyển sang nghiên cứu về hai mảng văn học Nam kỳ thời đầu và văn học Hán Nôm Đạo (Thiên Chúa) cũng như nhìn lại những phê phán của ông thời trước đó, như về văn chương bình dân, về Trương Vĩnh Ký,... Ông đã nghiên cứu ngôn ngữ văn học với các Lm. Nguyễn Hưng, Thanh Lãng, các giáo sư Vũ Văn Kính, Võ Long Tê, nhà văn Thế Uyên,... và đã xuất bản trong nước sau 1975: Câu Đố Việt Nam (NXB Tp HCM, 1986; tái bản 1991), Trương Vĩnh Ký, nhà văn hóa (NXB Hội Nhà Văn, 1993), Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, truyện ngắn sớm hơn cả viết theo lối Tây phương? (tài liệu học tập, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1987; NXB Hội Nhà Văn tái bản), Hồ sơ về Lục Châu học tìm hiểu con người ở vùng đất mới dựa vào tài liệu văn, sử ở Miền Nam từ 1865 đến 1930 (NXB Trẻ, 2014).

Sau khi đoàn tụ gia đình ở Montréal từ năm 1994, ông tiếp tục một số công trình nghiên cứu và lý luận văn-học tham gia, đóng góp cho văn học hải ngoại, qua các bài tham luận, biên khảo trên các tạp chí Văn Học, Triết, Tin Nhà, Đi Tới, v.v. Ông cũng viết hồi ký nhìn lại những chặng đường đã qua và đã có một số tác phẩm mới được nhà Nam Sơn (Trịnh Viết Đức, Montreal, Canada) in lại phổ biến hạn chế, có thể kể: Nhận Định tập VII ("Cách mạng và hư vô, 1988-1993"; 1996), VIII ("Công giáo miền Nam trong lòng chế độ), IX ("triết học, văn học, sử học 1975-1993"; 1999), X ("Trong Nước, Ngoài Nước 1994-1998"; 1999), Đọc Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan (1999), Đạo Chúa Ở Việt-Nam (2000), Hồ Sơ Về Tạp-Chí Hành Trình Sài Gòn 1964-1965 (2000), Dịch Thuật Và Lý Luận Dịch Thuật (2002),... Bộ hồi ký "Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua" (2000) cũng như một số biên khảo, nhận định văn học, tôn giáo và chính trị hoàn thành sau 1975 đến 1994 cũng được in hạn chế hoặc xuất hiện trên các trang mạng Internet. Hồ Sơ về Lục Châu Học - "dựa vào tài liệu văn, sử bằng quốc ngữ xuất bản ở miền Nam (1865-1930), Tìm hiểu Con người ở Vùng đất mới" xong từ thập niên 1980, cuối cùng được xuất-bản ở trong nước (2014).

Trong tập tài liệu "Vấn Đề Công Giáo Đặt Cho Dân Tộc" (1988), ông đã hết lòng chứng minh chống lại cái "thiên kiến hần như đã trở thành chân lý là người công giáo Việt Nam liên hệ với thực dân đế quốc và lai căng về văn hóa", thành kiến mà chính một số người công giáo (trong đó có giáo sư thời trước 1975) đã nhìn nhận và từ đó tìm trở về dân tộc (như nhóm Đối Diện, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, v.v.). Trong chiều hướng thời thượng đó, trong Chữ Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc (1974), giáo sư Trung đã đưa ra luận điểm bôi đen thành quả đóng góp với dân tộc, cho rằng việc "sáng lập và sử dụng chữ quốc-ngữ nhằm mục đích cô lập người công giáo Việt Nam với cộng đồng dân tộc bằng cách xóa bỏ chữ Nho, chữ Nôm,...". Ông tiếc việc có những người ngoài công giáo đã trích dẫn những lập luận của ông thời đó. Ông lập lại và chứng minh thêm qua hai biên khảo khác là Đạo Chúa Ở Việt Nam (2000) và Dịch Thuật Và Lý Luận Dịch Thuật (2002) cũng như trong "Tài liệu tham khảo" Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII-XIX) (Tp HCM: Trường Đại học tổng hợp Tp HCM, Khoa Ngữ Văn, 1993).

Trong Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa (Hà-Nội: NXB Hội Nhà Văn, 1993), giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng đã thú nhận đã hiểu sai việc dựng tượng nên đã mạnh tay với Trương Vĩnh Ký trước 1975 (Sđd, tr 46), đã nhiều lần cho biết: "Có thể chúng tôi cũng có trách nhiệm phần nào trong việc dẹp bỏ tượng Trương Vĩnh Ký vì nhiều năm trước 1975, chúng tôi đã đề ra một cuộc vận động phê phán Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký về phương diện chính trị và văn hóa" (tr. 44); "Trước 1975 tôi đã viết nhiều bài, sách phê phán nghiêm khắc Trương Vĩnh Ký đặc biệt về chính trị, hơn nữa tôi còn gợi ý khuyến khích một vài bạn trẻ đi vào con đường đó như Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy. Những loạt bài phê phán của chúng tôi đã gây phiền muộn bất mãn trong giới văn hóa miền Nam lúc đó đặc biệt hai người Hồ Hữu Tường và Vương Hồng Sển..."("RFI phỏng vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Ký", Đi Tới (Montréal, Canada), số 13, 9-1998, tr. 22. In lại trong Nhận Định X (Montréal: TGXB, 1999), tr. 151).

Sau 1975, ông hay nói đến phương pháp theo lý luận của Gramsci, tổng bí thư đảng cộng sản Ý, về luận điểm phải nhìn nhận tính cách gắn bó với dân tộc của những người theo một tôn giáo (như Thiên Chúa giáo) đã tạo ra được một nền văn-học dân gian như trường hợp Công giáo bình dân Ý.

NXB Nam Sơn và ông Trịnh Viết Đức đã in lại và xuất bản hạn chế một số sách của GS Trung trong số có các tập Nhận Định - ông TVĐ đã mất tại Montréal và các sách này in tối đa là 100 bản cho mỗi cuốn, một số có thể tham khảo ở thư viện thành phố Montreal và ở Hoa Kỳ.

Tập Nhận Định VII: cách mạng và hư vô" 1996, gồm bài viết từ 1988 đến 1993.

"Nhận Định VIII: "Công giáo miền Nam trong lòng chế độ", 1996, gồm những bài về văn hóa và văn học.

"Nhận Định IX" "triết-học, văn-học, sử học 1975-1993"; 1999; chủ yếu là những nhận định phương pháp luận về nghiên cứu văn hóa Việt-Nam.

"Nhận Định X" "trong nước, ngoài nước 1994-1998" gồm những bài viết khi còn ở trong nước và ở hải ngoại, 1999.

Về văn học hải ngoại, dù mới sang định cư ông cũng đã suy nghĩ về 20 năm văn học hải ngoại trong toàn cảnh của văn học và lịch sử Việt Nam nói chung, từ đó phát hiện các đặc tính và triển vọng của nền văn-học ấy, trên tạp chí Văn Học CA ("Văn học hải ngoại?"; số 112, 8-1995)...

Nguyễn Vy Khanh
Chú thích:

(16)- Giáo sư Nguyễn Văn Trung soạn Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp ở Việt Nam sau bài diễn thuyết năm 1962 về Vụ án truyện Kiều tố Phạm Quỳnh tay sai Pháp ru ngủ thanh niên, trí thức, gây nhiều chỉ trích, phê phán trong Nam cũng như ngoài Bắc.

(17) - Năm 1972-73, Trung Tâm Alpha ở Sài-Gòn in 2 tập với tựa đề Phạm Quỳnh của tác giả Nguyễn Văn Trung: tập 1 tổng quát về PQ, tập 2 về "PQ, văn học và chính trị".

(18) - Sau 1975, giáo sư Nguyễn Văn Trung nghiên cứu về văn hóa Nam kỳ lục tỉnh và nhìn lại những chặng đường đã qua. Trong tập tài liệu Vấn Đề Công Giáo Đặt Cho Dân Tộc (1988), ông đã hết lòng chứng minh chống lại cái "thiên kiến hầu như đã trở thành chân lý là người công giáo Việt Nam liên hệ với thực dân đế quốc và lai căng về văn hóa", thành kiến mà chính một số người công giáo (trong đó có giáo sư thời trước 1975) đã nhìn nhận và từ đó tìm trở về dân tộc (như nhóm Đối Diện, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, v.v.). Ông tiếc việc có những người ngoài Công giáo đã và vẫn trích dẫn những lập luận của ông thời đó. Ông lập lại và chứng minh thêm qua hai biên khảo khác là Đạo Chúa Ở Việt-Nam (1999?) và Dịch Thuật Và Lý Luận Dịch Thuật (2002).

(19) - Nguyễn Văn Trung. "Truyện là thơ trong tiểu thuyết của Michel Butor". Bách Khoa, số 113, 15-9-1961, tr. 70.

(20) - Hoàng Thái Linh. "Văn chương và siêu hình học". Sáng Tạo, số 10, 7-1957, tr. 19-24.