Lễ vật sau cùng - Truyện của Henry Van Dyke - Phạm Hoàng Nghị phỏng dịch

Artaban chậm bước ra ngoài sân thượng. Gió đêm thổi từ sườn núi Orontes về thật lạnh. Ngoài một dải sương trắng đục nằm dài trên bình nguyên phía đông, cả bầu trời trong xanh không một gợn mây. Chàng ngước mắt nhìn trời cao. Bỗng nhiên trước mắt chàng hai vì sao Jupiter và Saturn quyện vào nhau như một bó đuốc và từ đó bắn ra một đốm lửa lung linh màu tím thẫm, dần dần đổi sang màu cam vàng ối và cuối cùng trắng sáng như bạch kim. Chàng bàng hoàng tự nhủ: Dấu hiệu đây rồi. Vua đã giáng hạ. Ta phải đi chiêm bái Ngài mới được. NGUỒN:

Artaban chậm bước ra ngoài sân thượng. Gió đêm thổi từ sườn núi Orontes về thật lạnh. Ngoài một dải sương trắng đục nằm dài trên bình nguyên phía đông, cả bầu trời trong xanh không một gợn mây. Chàng ngước mắt nhìn trời cao. Bỗng nhiên trước mắt chàng hai vì sao Jupiter và Saturn quyện vào nhau như một bó đuốc và từ đó bắn ra một đốm lửa lung linh màu tím thẫm, dần dần đổi sang màu cam vàng ối và cuối cùng trắng sáng như bạch kim. Chàng bàng hoàng tự nhủ: Dấu hiệu đây rồi. Vua đã giáng hạ. Ta phải đi chiêm bái Ngài mới được.

Lời tiên tri từ ngàn năm trước đó được giải đoán là một ngôi sao mới sẽ xuất hiện để báo tin ngày ra đời của đấng minh quân, cứu tinh của dân tộc Do Thái.

Chàng đã sửa soạn từ lâu cho cuộc hành trình này. Đem bán hết tài sản, chàng tìm mua ba viên ngọc quý, dự định dâng lên Vua mới ra đời: một viên ngọc xanh biếc như bầu trời xanh đêm, một viên hồng ngọc đỏ chói hơn tia nắng rạng đông, và một viên bạch ngọc trắng như đỉnh núi đầy tuyết phủ.
o O o
Suốt đêm, Vasda – con tuấn mã chạy nhanh nhất trong bầy ngựa của Artaban – yên cương đã sẵn sàng trên lưng, đứng bồn chồn trong chuồng như cùng chia sẻ nỗi lòng nao nức của chủ.

Trước khi bầy chim cất tiếng ca vui buổi sáng, trước lúc làn sương đục tan dần trên dải bình nguyên, chàng đã nhanh nhẹn nhảy lên mình ngựa phi nước đại về phía tây.

Ngựa băng qua vùng núi Orontes với những suối nước chảy băng băng, qua bình nguyên Nissaeans có bầy thú vật hàng ngàn con đang gặm cỏ, qua những cánh đồng phì nhiêu Concabar bụi bay mù mịt từ những sân đập lúa, qua Baghistan nơi những dòng nước tuôn róc rách từ khe đá xuống tưới vườn cây xanh mướt...

Suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng, người và ngựa thân nhau như đôi bạn, cùng ngủ dưới bầu trời đầy sao, cùng uống nước từ những dòng suối mát, cùng chia nhau những bữa ăn thanh đạm. Cả hai cố nuốt quãng đường xa thăm thẳm, vì chàng trù tính phải đến đúng hẹn với ba người bạn đang đợi chàng ở Babylon.

Chàng băng qua những đèo cao heo hút lạnh, những núi đồi gió buốt căm căm, những dòng sông nước gầm ào ạt. Đến ngày thứ mười, khi hoàng hôn xuống, chàng đã thấy bức tường thành Babylon trước mặt. Người và ngựa cùng muốn dừng chân tìm chỗ nghỉ ngơi trong thành, nhưng chàng biết chỉ còn đi ba giờ nữa là có thể đến được ngôi đền Ba Vòng Cầu nơi chàng có hẹn với các bạn đêm nay. Vì vậy chàng không dừng lại mà phi ngựa đi luôn băng qua đồng cỏ.

Rừng cây chà là rậm rạp ngăn chút ánh sáng mờ nhạt còn lại lúc hoàng hôn. Đêm dần dần buông xuống. Con Vasda chậm bước đi thật cẩn thận. Bỗng nó chùn bước lại. Con tuấn mã này như có linh tính một mối đe dọa nào đang chờ đón khi thấy một vật đen ngòm nằm bất động trên đường.

Artaban xuống ngựa. Trong bóng sao mờ nhạt, chàng thấy hình dạng một người nằm bất tỉnh. Bộ quần áo nghèo nàn, khuôn mặt khắc khổ của người đó cho chàng biết y là một người Do Thái lưu lạc trong vùng. Bàn tay y lạnh ngắt và nơi bộ ngực không còn nghe tiếng đập. Chàng thở dài với ý nghĩ xót thương, tưởng tượng đến xác chết nằm đây sẽ làm mồi cho dã thú. Vừa quay mặt đi, chàng bỗng nghe một tiếng thở yếu ớt thoát ra từ đôi môi xác chết. Và bàn tay xương xẩu của y bỗng níu chặt lấy gấu áo chàng.

Tim Artaban như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, không phải vì sợ, nhưng vì một ý nghĩ vừa thoáng qua óc chàng: Làm sao có thể nán lại đây để cứu giúp một người lạ mặt đang cơn hấp hối? Nếu chàng chỉ ở lại một giờ thôi thì cũng không thể đến kịp hẹn với các bạn. Họ sẽ nghĩ là chàng bỏ cuộc và ra đi không đợi chàng nữa. Nhưng nếu chàng bỏ đi thì người này chắc chết, mà nán ở lại may ra có thể cứu được y chăng. Tâm trạng chàng rối bời, không biết tính sao, chỉ thầm cầu Trời cho mình chọn đúng con đường phải theo lúc này.

Rồi chàng quay mặt lại, gỡ tay người bệnh ra, bồng y đến một gốc cây chà là. Lấy nước từ con lạch gần đó, chàng thấm dần vào đôi môi trắng bệch của y, hòa theo chút linh dược luôn mang theo bên mình. Chàng xoa bóp hàng giờ như một lương y tài khéo, và cuối cùng người đó được hồi phục. Y ngồi dậy nhìn chàng, ngập ngừng hỏi:

– Ngài là ai, tại sao lại thấy tôi ở đây mà cứu giúp?

– Tôi là Artaban, chàng đáp. Tôi đi từ Ecbatana đến Jerusalem để tìm một vị Ấu Vương vừa sinh ra làm vua người Do Thái.

Người bệnh run run đưa hai tay lên trời nói:

– Cầu xin Đức Chúa của Abraham, Isaac và Jacob chúc phúc cho cuộc hành trình của ngài. Tôi không biết lấy gì trả ơn ngài, nhưng có điều này có thể cho ngài rõ là Đấng Cứu Thế không sinh hạ ở Jerusalem đâu, mà ở Belem xứ Judea vì các đấng tiên tri của chúng tôi đã nói như vậy. Cầu Đức Chúa đưa ngài tới đó bình an vì ngài đã xót thương người bệnh hoạn.

Đã quá nửa đêm lâu rồi. Artaban vội vã thúc con Vasda lên đường nhanh như một mũi tên bắn. Nhưng vừa hừng đông, khi chàng đến được ngôi đền Bảy Vòng Cầu thì chẳng thấy các bạn đâu. Chàng tìm được một mảnh giấy chặn dưới viên gạch vỡ cho biết các bạn không thể đợi chàng lâu hơn nên đã ra đi rồi, nếu muốn tìm thấy họ thì đi vào sa mạc.

Ngồi phịch xuống đất, chàng vò đầu, bứt tóc: Làm sao có thể qua được sa mạc với một con ngựa đã mỏi mệt, lại không đủ lương thực để ăn uống trong nhiều ngày? Chàng suy nghĩ thật lâu. Chỉ còn một cách thôi: phải bán viên lam ngọc đi lấy tiền mua mấy con lạc đà và lương thực ăn dọc đường mới mong đuổi kịp các bạn. Chỉ có Đức Chúa nhân từ mới hiểu được là chàng đã hụt mất cuộc tìm Vua vì đã động lòng trắc ẩn dọc đường...

Trên lưng con lạc đà chàng băng qua sa mạc, một vùng đất chết, không nhà cửa, không cây cối. Chàng chịu đựng cái nóng nung người ban ngày và cái lạnh thấu xương khi đêm xuống.

Và rồi cuối cùng chàng cũng đến được vùng Damas đầy cây trái, vùng thung lũng sông Jordan xanh mát những hàng trắc bá diệp, qua hồ Galilê nước trong xanh, và chàng đặt chân đến Belem, lòng tự nhủ: Dù có đến trễ hơn các bạn nhưng cũng sẽ tìm được Vua, như lời người Do Thái kia đã cho chàng biết.

Đường phố trong làng thật vắng lặng. Chàng đoán mọi người đã lên đồi chăn cừu cả rồi. Qua cánh cửa mở từ một căn nhà nhỏ, tiếng người mẹ ru con vọng ra thật êm dịu. Chàng đi vào, nghe người thiếu phụ cho biết có ba đạo sĩ đến đây từ ba ngày trước tìm đến chỗ ông Giuse cung kính dâng cho hài nhi mới sanh nhiều lễ vật quý giá. Chị nói tiếp:

– Nhưng rồi không hiểu vì sao ba người đó vội vã ra đi, cũng bí mật như khi họ đến. Chúng tôi chẳng biết họ đi đâu. Còn ông Giuse sau hôm đó cũng hấp tấp đem hài nhi và mẹ đứa trẻ trốn đi. Nghe đồn họ trốn sang Ai Cập. Cũng có tin bọn lính La Mã từ Jerusalem sắp đến để thu thêm thuế, nên trai tráng trong làng đã lên cả trên đồi đem cừu đi giấu tận xa.

Đứa bé trên tay người mẹ ngước nhìn chàng, bàn tay hồng hào đưa lên nắm lấy chiếc vòng chàng đeo trước ngực. Lòng chàng ấm lại, ước mong sao người mẹ và hài nhi này chính là những người chàng đang cố công tìm gặp. Thiếu phụ đặt con vào nôi rồi dọn cho chàng một bữa ăn thanh đạm.

Bỗng đâu có tiếng ồn ào ngoài đường lẫn với tiếng kèn thổi, tiếng đao kiếm và tiếng những người đàn bà kêu la thất thanh:

– Lính Herod đến! Chúng giết hết con chúng tôi rồi!

Mặt người thiếu phụ xám xanh vì sợ. Nàng bồng con trốn vào góc nhà. Artaban vội chạy ra đứng chắn ngay ở cửa, đôi vai rộng che khuất cả lối vào.

Bọn lính ngoài đường đang hung hăng cầm gươm đẫm máu ào tới. Chúng được lệnh vua Herod tàn sát tất cả những đứa bé trai từ hai tuổi trở xuống để diệt Ấu Chúa. Thấy chàng đứng chắn lối, chúng ngạc nhiên dừng lại. Người đội trưởng tiến đến cửa đẩy chàng sang một bên nhưng chàng không nhúc nhích. Vẻ mặt thật bình thản, chàng nói nhỏ với y:

– Ở đây chỉ có mình tôi thôi. Tôi muốn tặng viên ngọc quý này cho người đội trưởng tốt bụng như anh để được yên thân.

Chàng đưa ra viên hồng ngọc đỏ lung linh như một giọt máu. Mắt viên đội trưởng sáng lên, y vội nhặt lấy bỏ vào túi, miệng nói to:

– Nhà này không có trẻ con. Các anh đi đi thôi.

Bọn chúng quay đi, và tiếng ồn ào mất lần dưới phố. Chàng quay vào nhà, hướng về phía đông và cầu nguyện: Lạy Thượng Đế, xin tha cho con vì con đã nói điều không thật chỉ vì muốn cứu đứa trẻ này thôi. Vậy là hai lễ vật của con đã mất rồi. Con còn xứng đáng ra mắt Đức Vua nữa không?

Tiếng người thiếu phụ thổn thức vì mừng rỡ phía sau lưng chàng.
o O o
Vậy là chàng vội vàng lên đường đi Ai Cập. Bước chân chàng lang thang khắp nơi, từ đồng bằng sông Nile tới chân Kim Tự Tháp, nơi nào chàng cũng hỏi thăm về gia đình Do Thái lánh nạn từ Belem tới. Một thầy tư tế người Do Thái chàng gặp ở Alexandria đọc trong cổ thư cho chàng biết là vị Vua mà chàng đang tìm kiếm không thể gặp được ở nơi giàu sang quyền quý, mà ở giữa đám người bị áp bức, nghèo nàn.

Bước chân chàng lại đi khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi sinh sống của những người nghèo đói, tật nguyền. Nơi nào chàng cũng rộng lòng cứu giúp: cho người đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chữa bệnh tật cho người đau yếu, thăm viếng những người bị bắt bớ, ủi an kẻ tật nguyền. Rồi năm tháng đi qua thật mau. Chàng hầu như quên lãng cuộc tìm kiếm bấy lâu đeo đuổi.
o O o
Ba mươi ba năm đã trôi qua cuộc đời Artaban mà chàng vẫn còn là người lữ hành cô độc. Tóc chàng ngày trước đen như màu đá trên đỉnh núi Zagros mà nay bạc trắng như có lớp tuyết phủ. Thân xác mỏi mệt và tàn tạ, chàng tưởng mình sắp chết nên cố trở về Jerusalem một lần, như một nỗ lực sau cùng đi tìm kiếm đấng Đế Vương.

Lúc đó là mùa lễ Vượt Qua. Đường phố Jerusalem đầy những người lạ mặt từ các nơi đổ về Đền Thánh để mừng lễ. Nhưng hình như mọi người cùng đang đi về phía cổng Damas, những bước chân dồn dập làm cát bụi tung mù trời. Artaban nhập vào dòng người đó. Chàng dò hỏi xem họ đi đâu mà ồn ào náo nhiệt đến thế.

– Ông không biết à? Hôm nay ở đồi Golgotha ngoại thành có cuộc hành hình hai tên cướp và một người nữa có tên là Giêsu người xứ Nazareth. Ông này làm nhiều điều kỳ lạ và được dân thương mến, nhưng các thầy tư tế và trưởng lão kết tội người phải chết vì dám xưng mình là con Thượng Đế. Tổng trấn Philatô thì truyền đóng đinh người vì người tự cho mình là Vua Do Thái.

Những từ ngữ nghe rất thân quen đó đã khiến chàng lên rừng xuống biển tìm kiếm bao năm nay bỗng nhiên xuất hiện, làm sống lại tâm hồn đã mệt mỏi của chàng. Chàng hoài nghi: Vua đã xuất hiện, nhưng Ngài bị chối từ, bị bội phản. Có thể là Ngài sắp bị chết. Đây có phải là người đã sinh ở Belem ba mươi ba năm trước mà ngôi sao xuất hiện để báo tin, và là người mà các tiên tri đã báo trước ngày ra đời?

Trái tim già nua của Artaban đập loạn lên với những ý nghĩ hoài nghi đó. Nhưng chàng tự nhủ: Đường lối của Thượng Đế thật kỳ lạ, khác của người phàm. Có thể là cuối cùng ta sẽ tìm được Vua trong tay kẻ thù, và viên ngọc quý còn lại này sẽ dùng để cứu mạng cho Người chăng?

Vậy là chàng đi theo đám người ra phía cổng Damas với bước chân chậm chạp và cõi lòng tan nát. Bỗng chàng thấy ngay lối vào trạm gác một đám lính đang tràn xuống phố, kéo theo một cô gái quần áo tả tơi, tóc tai rũ rượi. Khi chàng đứng lại nhìn cô gái với đôi mắt đầy xót thương thì nàng bỗng vùng chạy thoát khỏi tay bọn lính hung hăng, ào đến quỳ mọp dưới chân chàng. Nàng đã thấy chiếc mũ trắng trên đầu chàng và chiếc vòng trên ngực, biểu hiệu của người đạo sĩ, nên cất tiếng van xin:

– Lạy Ngài, xin cứu giúp con. Cha con là một thương gia mới qua đời nhưng vì nợ nần chồng chất nên họ bắt con đi làm nô lệ để trừ nợ. Xin Ngài cứu con vì thà con chết còn đỡ khổ hơn là làm nô lệ.

Artaban chậm bước ra ngoài sân thượng. Gió đêm thổi từ sườn núi Orontes về thật lạnh. Ngoài một dải sương trắng đục nằm dài trên bình nguyên phía đông, cả bầu trời trong xanh không một gợn mây. Chàng ngước mắt nhìn trời cao. Bỗng nhiên trước mắt chàng hai vì sao Jupiter và Saturn quyện vào nhau như một bó đuốc và từ đó bắn ra một đốm lửa lung linh màu tím thẫm, dần dần đổi sang màu cam vàng ối và cuối cùng trắng sáng như bạch kim. Chàng bàng hoàng tự nhủ: Dấu hiệu đây rồi. Vua đã giáng hạ. Ta phải đi chiêm bái Ngài mới được.

Lời tiên tri từ ngàn năm trước đó được giải đoán là một ngôi sao mới sẽ xuất hiện để báo tin ngày ra đời của đấng minh quân, cứu tinh của dân tộc Do Thái.

Chàng đã sửa soạn từ lâu cho cuộc hành trình này. Đem bán hết tài sản, chàng tìm mua ba viên ngọc quý, dự định dâng lên Vua mới ra đời: một viên ngọc xanh biếc như bầu trời xanh đêm, một viên hồng ngọc đỏ chói hơn tia nắng rạng đông, và một viên bạch ngọc trắng như đỉnh núi đầy tuyết phủ.

o O o

Suốt đêm, Vasda – con tuấn mã chạy nhanh nhất trong bầy ngựa của Artaban – yên cương đã sẵn sàng trên lưng, đứng bồn chồn trong chuồng như cùng chia sẻ nỗi lòng nao nức của chủ.

Trước khi bầy chim cất tiếng ca vui buổi sáng, trước lúc làn sương đục tan dần trên dải bình nguyên, chàng đã nhanh nhẹn nhảy lên mình ngựa phi nước đại về phía tây.

Ngựa băng qua vùng núi Orontes với những suối nước chảy băng băng, qua bình nguyên Nissaeans có bầy thú vật hàng ngàn con đang gặm cỏ, qua những cánh đồng phì nhiêu Concabar bụi bay mù mịt từ những sân đập lúa, qua Baghistan nơi những dòng nước tuôn róc rách từ khe đá xuống tưới vườn cây xanh mướt...

Suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng, người và ngựa thân nhau như đôi bạn, cùng ngủ dưới bầu trời đầy sao, cùng uống nước từ những dòng suối mát, cùng chia nhau những bữa ăn thanh đạm. Cả hai cố nuốt quãng đường xa thăm thẳm, vì chàng trù tính phải đến đúng hẹn với ba người bạn đang đợi chàng ở Babylon.

Chàng băng qua những đèo cao heo hút lạnh, những núi đồi gió buốt căm căm, những dòng sông nước gầm ào ạt. Đến ngày thứ mười, khi hoàng hôn xuống, chàng đã thấy bức tường thành Babylon trước mặt. Người và ngựa cùng muốn dừng chân tìm chỗ nghỉ ngơi trong thành, nhưng chàng biết chỉ còn đi ba giờ nữa là có thể đến được ngôi đền Ba Vòng Cầu nơi chàng có hẹn với các bạn đêm nay. Vì vậy chàng không dừng lại mà phi ngựa đi luôn băng qua đồng cỏ.

Rừng cây chà là rậm rạp ngăn chút ánh sáng mờ nhạt còn lại lúc hoàng hôn. Đêm dần dần buông xuống. Con Vasda chậm bước đi thật cẩn thận. Bỗng nó chùn bước lại. Con tuấn mã này như có linh tính một mối đe dọa nào đang chờ đón khi thấy một vật đen ngòm nằm bất động trên đường.

Artaban xuống ngựa. Trong bóng sao mờ nhạt, chàng thấy hình dạng một người nằm bất tỉnh. Bộ quần áo nghèo nàn, khuôn mặt khắc khổ của người đó cho chàng biết y là một người Do Thái lưu lạc trong vùng. Bàn tay y lạnh ngắt và nơi bộ ngực không còn nghe tiếng đập. Chàng thở dài với ý nghĩ xót thương, tưởng tượng đến xác chết nằm đây sẽ làm mồi cho dã thú. Vừa quay mặt đi, chàng bỗng nghe một tiếng thở yếu ớt thoát ra từ đôi môi xác chết. Và bàn tay xương xẩu của y bỗng níu chặt lấy gấu áo chàng.

Tim Artaban như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, không phải vì sợ, nhưng vì một ý nghĩ vừa thoáng qua óc chàng: Làm sao có thể nán lại đây để cứu giúp một người lạ mặt đang cơn hấp hối? Nếu chàng chỉ ở lại một giờ thôi thì cũng không thể đến kịp hẹn với các bạn. Họ sẽ nghĩ là chàng bỏ cuộc và ra đi không đợi chàng nữa. Nhưng nếu chàng bỏ đi thì người này chắc chết, mà nán ở lại may ra có thể cứu được y chăng. Tâm trạng chàng rối bời, không biết tính sao, chỉ thầm cầu Trời cho mình chọn đúng con đường phải theo lúc này.

Rồi chàng quay mặt lại, gỡ tay người bệnh ra, bồng y đến một gốc cây chà là. Lấy nước từ con lạch gần đó, chàng thấm dần vào đôi môi trắng bệch của y, hòa theo chút linh dược luôn mang theo bên mình. Chàng xoa bóp hàng giờ như một lương y tài khéo, và cuối cùng người đó được hồi phục. Y ngồi dậy nhìn chàng, ngập ngừng hỏi:

– Ngài là ai, tại sao lại thấy tôi ở đây mà cứu giúp?

– Tôi là Artaban, chàng đáp. Tôi đi từ Ecbatana đến Jerusalem để tìm một vị Ấu Vương vừa sinh ra làm vua người Do Thái.

Người bệnh run run đưa hai tay lên trời nói:

– Cầu xin Đức Chúa của Abraham, Isaac và Jacob chúc phúc cho cuộc hành trình của ngài. Tôi không biết lấy gì trả ơn ngài, nhưng có điều này có thể cho ngài rõ là Đấng Cứu Thế không sinh hạ ở Jerusalem đâu, mà ở Belem xứ Judea vì các đấng tiên tri của chúng tôi đã nói như vậy. Cầu Đức Chúa đưa ngài tới đó bình an vì ngài đã xót thương người bệnh hoạn.

Đã quá nửa đêm lâu rồi. Artaban vội vã thúc con Vasda lên đường nhanh như một mũi tên bắn. Nhưng vừa hừng đông, khi chàng đến được ngôi đền Bảy Vòng Cầu thì chẳng thấy các bạn đâu. Chàng tìm được một mảnh giấy chặn dưới viên gạch vỡ cho biết các bạn không thể đợi chàng lâu hơn nên đã ra đi rồi, nếu muốn tìm thấy họ thì đi vào sa mạc.

Ngồi phịch xuống đất, chàng vò đầu, bứt tóc: Làm sao có thể qua được sa mạc với một con ngựa đã mỏi mệt, lại không đủ lương thực để ăn uống trong nhiều ngày? Chàng suy nghĩ thật lâu. Chỉ còn một cách thôi: phải bán viên lam ngọc đi lấy tiền mua mấy con lạc đà và lương thực ăn dọc đường mới mong đuổi kịp các bạn. Chỉ có Đức Chúa nhân từ mới hiểu được là chàng đã hụt mất cuộc tìm Vua vì đã động lòng trắc ẩn dọc đường...

Trên lưng con lạc đà chàng băng qua sa mạc, một vùng đất chết, không nhà cửa, không cây cối. Chàng chịu đựng cái nóng nung người ban ngày và cái lạnh thấu xương khi đêm xuống.

Và rồi cuối cùng chàng cũng đến được vùng Damas đầy cây trái, vùng thung lũng sông Jordan xanh mát những hàng trắc bá diệp, qua hồ Galilê nước trong xanh, và chàng đặt chân đến Belem, lòng tự nhủ: Dù có đến trễ hơn các bạn nhưng cũng sẽ tìm được Vua, như lời người Do Thái kia đã cho chàng biết.

Đường phố trong làng thật vắng lặng. Chàng đoán mọi người đã lên đồi chăn cừu cả rồi. Qua cánh cửa mở từ một căn nhà nhỏ, tiếng người mẹ ru con vọng ra thật êm dịu. Chàng đi vào, nghe người thiếu phụ cho biết có ba đạo sĩ đến đây từ ba ngày trước tìm đến chỗ ông Giuse cung kính dâng cho hài nhi mới sanh nhiều lễ vật quý giá. Chị nói tiếp:

– Nhưng rồi không hiểu vì sao ba người đó vội vã ra đi, cũng bí mật như khi họ đến. Chúng tôi chẳng biết họ đi đâu. Còn ông Giuse sau hôm đó cũng hấp tấp đem hài nhi và mẹ đứa trẻ trốn đi. Nghe đồn họ trốn sang Ai Cập. Cũng có tin bọn lính La Mã từ Jerusalem sắp đến để thu thêm thuế, nên trai tráng trong làng đã lên cả trên đồi đem cừu đi giấu tận xa.

Đứa bé trên tay người mẹ ngước nhìn chàng, bàn tay hồng hào đưa lên nắm lấy chiếc vòng chàng đeo trước ngực. Lòng chàng ấm lại, ước mong sao người mẹ và hài nhi này chính là những người chàng đang cố công tìm gặp. Thiếu phụ đặt con vào nôi rồi dọn cho chàng một bữa ăn thanh đạm.

Bỗng đâu có tiếng ồn ào ngoài đường lẫn với tiếng kèn thổi, tiếng đao kiếm và tiếng những người đàn bà kêu la thất thanh:

– Lính Herod đến! Chúng giết hết con chúng tôi rồi!

Mặt người thiếu phụ xám xanh vì sợ. Nàng bồng con trốn vào góc nhà. Artaban vội chạy ra đứng chắn ngay ở cửa, đôi vai rộng che khuất cả lối vào.

Bọn lính ngoài đường đang hung hăng cầm gươm đẫm máu ào tới. Chúng được lệnh vua Herod tàn sát tất cả những đứa bé trai từ hai tuổi trở xuống để diệt Ấu Chúa. Thấy chàng đứng chắn lối, chúng ngạc nhiên dừng lại. Người đội trưởng tiến đến cửa đẩy chàng sang một bên nhưng chàng không nhúc nhích. Vẻ mặt thật bình thản, chàng nói nhỏ với y:

– Ở đây chỉ có mình tôi thôi. Tôi muốn tặng viên ngọc quý này cho người đội trưởng tốt bụng như anh để được yên thân.

Chàng đưa ra viên hồng ngọc đỏ lung linh như một giọt máu. Mắt viên đội trưởng sáng lên, y vội nhặt lấy bỏ vào túi, miệng nói to:

– Nhà này không có trẻ con. Các anh đi đi thôi.

Bọn chúng quay đi, và tiếng ồn ào mất lần dưới phố. Chàng quay vào nhà, hướng về phía đông và cầu nguyện: Lạy Thượng Đế, xin tha cho con vì con đã nói điều không thật chỉ vì muốn cứu đứa trẻ này thôi. Vậy là hai lễ vật của con đã mất rồi. Con còn xứng đáng ra mắt Đức Vua nữa không?

Tiếng người thiếu phụ thổn thức vì mừng rỡ phía sau lưng chàng.

o O o

Vậy là chàng vội vàng lên đường đi Ai Cập. Bước chân chàng lang thang khắp nơi, từ đồng bằng sông Nile tới chân Kim Tự Tháp, nơi nào chàng cũng hỏi thăm về gia đình Do Thái lánh nạn từ Belem tới. Một thầy tư tế người Do Thái chàng gặp ở Alexandria đọc trong cổ thư cho chàng biết là vị Vua mà chàng đang tìm kiếm không thể gặp được ở nơi giàu sang quyền quý, mà ở giữa đám người bị áp bức, nghèo nàn.

Bước chân chàng lại đi khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi sinh sống của những người nghèo đói, tật nguyền. Nơi nào chàng cũng rộng lòng cứu giúp: cho người đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chữa bệnh tật cho người đau yếu, thăm viếng những người bị bắt bớ, ủi an kẻ tật nguyền. Rồi năm tháng đi qua thật mau. Chàng hầu như quên lãng cuộc tìm kiếm bấy lâu đeo đuổi.

o O o

Ba mươi ba năm đã trôi qua cuộc đời Artaban mà chàng vẫn còn là người lữ hành cô độc. Tóc chàng ngày trước đen như màu đá trên đỉnh núi Zagros mà nay bạc trắng như có lớp tuyết phủ. Thân xác mỏi mệt và tàn tạ, chàng tưởng mình sắp chết nên cố trở về Jerusalem một lần, như một nỗ lực sau cùng đi tìm kiếm đấng Đế Vương.

Lúc đó là mùa lễ Vượt Qua. Đường phố Jerusalem đầy những người lạ mặt từ các nơi đổ về Đền Thánh để mừng lễ. Nhưng hình như mọi người cùng đang đi về phía cổng Damas, những bước chân dồn dập làm cát bụi tung mù trời. Artaban nhập vào dòng người đó. Chàng dò hỏi xem họ đi đâu mà ồn ào náo nhiệt đến thế.

– Ông không biết à? Hôm nay ở đồi Golgotha ngoại thành có cuộc hành hình hai tên cướp và một người nữa có tên là Giêsu người xứ Nazareth. Ông này làm nhiều điều kỳ lạ và được dân thương mến, nhưng các thầy tư tế và trưởng lão kết tội người phải chết vì dám xưng mình là con Thượng Đế. Tổng trấn Philatô thì truyền đóng đinh người vì người tự cho mình là Vua Do Thái.

Những từ ngữ nghe rất thân quen đó đã khiến chàng lên rừng xuống biển tìm kiếm bao năm nay bỗng nhiên xuất hiện, làm sống lại tâm hồn đã mệt mỏi của chàng. Chàng hoài nghi: Vua đã xuất hiện, nhưng Ngài bị chối từ, bị bội phản. Có thể là Ngài sắp bị chết. Đây có phải là người đã sinh ở Belem ba mươi ba năm trước mà ngôi sao xuất hiện để báo tin, và là người mà các tiên tri đã báo trước ngày ra đời?

Trái tim già nua của Artaban đập loạn lên với những ý nghĩ hoài nghi đó. Nhưng chàng tự nhủ: Đường lối của Thượng Đế thật kỳ lạ, khác của người phàm. Có thể là cuối cùng ta sẽ tìm được Vua trong tay kẻ thù, và viên ngọc quý còn lại này sẽ dùng để cứu mạng cho Người chăng?

Vậy là chàng đi theo đám người ra phía cổng Damas với bước chân chậm chạp và cõi lòng tan nát. Bỗng chàng thấy ngay lối vào trạm gác một đám lính đang tràn xuống phố, kéo theo một cô gái quần áo tả tơi, tóc tai rũ rượi. Khi chàng đứng lại nhìn cô gái với đôi mắt đầy xót thương thì nàng bỗng vùng chạy thoát khỏi tay bọn lính hung hăng, ào đến quỳ mọp dưới chân chàng. Nàng đã thấy chiếc mũ trắng trên đầu chàng và chiếc vòng trên ngực, biểu hiệu của người đạo sĩ, nên cất tiếng van xin:

– Lạy Ngài, xin cứu giúp con. Cha con là một thương gia mới qua đời nhưng vì nợ nần chồng chất nên họ bắt con đi làm nô lệ để trừ nợ. Xin Ngài cứu con vì thà con chết còn đỡ khổ hơn là làm nô lệ.



Artaban bỗng run lên, hệt như cái cảm giác ngày nào chàng đã thấy khi ở trong rừng chà là vùng Babylon và trong căn nhà nhỏ ở Belem. Đây có phải là cơ hội làm phước hay đây là thử thách cuối cùng? Chàng bắt buộc phải chọn lựa. Nhưng từ sâu thẳm của linh hồn, chàng cảm thấy cứu giúp cô gái đáng thương kia là một nghĩa cử của tình yêu, và tình yêu chính là ánh sáng của linh hồn người. Chàng không còn do dự nữa...

Chàng lấy viên bạch ngọc từ trong túi ra. Chưa bao giờ nó thật rực rỡ, thật trong sáng, thật lung linh như lúc này. Chàng đặt vào tay cô gái:

– Vật này để cứu mạng cho con đó.

Trong lúc chàng nói, trời bỗng tối sầm lại và mặt đất như chuyển động. Tường nhà rung rinh, gạch ngói rơi xuống đường và bụi bay mù mịt. Bọn lính dưới chân thập tự giá chạy tán loạn. Nhưng Artaban và cô gái chàng vừa cứu thoát vẫn ngồi yên nép dưới chân tường.

Chàng có gì phải sợ hãi đâu? Chàng còn gì để hy vọng nữa? Lễ vật cuối cùng để dâng lên Vua đã cho đi rồi. Hy vọng đã tiêu tan. Cuộc tìm kiếm bấy lâu nay kể như đã xong và chàng hoàn toàn thất bại. Tuy nghĩ vậy, nhưng chàng thấy tâm hồn thật thanh thản và bình yên, không phải như chàng đã bỏ cuộc, đã đầu hàng. Chàng biết mình đã tận tụy suốt cuộc đời làm theo ánh sáng chỉ lối soi đường.

Đợt rung chuyển nữa nổi lên, mạnh mẽ hơn. Một viên ngói từ mái nhà rơi trúng thái dương Artaban. Chàng nằm đó bất động, mặt xanh xao, mái tóc trắng phủ trên vai cô gái, máu từ thái dương rịn ra. Lúc cúi xuống nhìn như sợ rằng chàng đã chết, cô gái bỗng nghe trong bóng chiều mờ nhạt như vọng lại từ xa thẳm tiếng gì như âm nhạc, thật nhẹ, thật êm, chỉ như những nốt nhạc không lời. Cô ngước mắt lên xem có tiếng ai từ khung cửa sổ vọng ra, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng người.

Rồi đôi môi Artaban bắt đầu mấp máy, dường như chàng đang trả lời ai đó: "Không phải vậy đâu, Chúa ơi! Vì có bao giờ con thấy Ngài đói mà con dâng cơm bánh, hoặc thấy Ngài khát mà con dâng nước uống? Con có bao giờ thấy Ngài như khách lạ mà mời vào tiếp đón? Hay thấy Ngài trần truồng mà dâng quần áo mặc? Hoặc thấy Ngài ốm đau hay tù tội mà thăm viếng, ủi an? Suốt ba mươi ba năm con rong ruổi kiếm tìm nhưng chưa bao giờ gặp mặt Ngài cả..."

Chàng ngưng lại. Và tiếng nói êm dịu kia lại vẳng lên. Cô gái lắng nghe, tiếng thật nhỏ như vọng đến từ xa xôi. Nhưng bây giờ thì cô hiểu được từng lời: "Này Ta thành thật cho con biết, điều gì con đã làm cho một trong những anh em hèn mọn nhất của Ta là con đã làm cho chính Ta đó."

Một niềm hoan lạc và bình an làm rạng rỡ khuôn mặt xanh xao của Artaban, như những tia sáng bình minh làm lung linh lớp tuyết phủ trên đầu non. Từ đôi môi chàng thoát ra một hơi thở thật nhẹ nhàng, thật bình yên.
Cuộc hành trình của chàng đã kết thúc. Chàng đã tìm được Vua. Và các báu vật của chàng đã được Vua tiếp nhận...


Bản Anh ngữ:
The Other Wise Man - by Henry Van Dyke


The other wise man's name was Artaban. He was one of the Magi and he lived in Persia. He was a man of great wealth, great learning, and great faith. With his learned companions he had searched the scriptures as to the time that the Savior should be born. They knew that a new star would appear and it was agreed between them that Artaban would watch from Persia and the others would observe the sky from Babylon.

On the night he believed the sign was to be given, Artaban went out on this roof to watch the night sky. "If the star appears, they will wait for me ten days, then we will all set out for Jerusalem. I have made ready for the journey by selling all of my possessions and have bought three jewels–a sapphire, a ruby, and a pearl. I intend to present them as my tribute to the king."

As he watched an azure spark was born out of the darkness, rounding itself with splendor into a crimson sphere. Artaban bowed his head. "It is the sign," he said. "The King is coming, and I will go to meet him."

The swiftest of Artaban's horses had been waiting saddled and bridled in her stall, pawing the ground impatiently. She shared the eagerness of her master's purpose.

As Artaban placed himself upon her back, he said, "God bless us both from falling and our souls from death."

They began their journey. Each day his faithful horse measured off the allotted proportion of the distance, and at nightfall on the tenth day, they approached the outskirts of Babylon. In a little island of desert palm trees, Artaban's horse scented difficulty and slackened her pace. Then she stood still, quivering in every muscle.

Artaban dismounted. The dim starlight revealed the from of a man lying in the roadway. His skin bore the mark of a deadly fever. The chill of death was in his lean hand. As Artaban turned to go, a sigh came from the sick man's lips.

Artaban felt sorry that he could not stay to minister to this dying stranger, but this was the hour toward which his entire life and been directed. He could not forfeit the reward of his years of study and faith to do a single deed of human mercy. But then, how could he leave his fellow man alone to die?

"God of truth and mercy," prayed Artaban, "direct me in the path of wisdom which only thou knowest." Then he knew that he could not go on. The Magi were physicians as well as astronomers. He took off his robe and began his work of healing. Several hours later the patient regained consciousness. Artaban gave him all that was left of his bread and wine. He left a potion of healing herbs and instructions for his care.

Though Artaban rode with the greatest haste the rest of the way, it was after dawn that he arrived at the designated meeting place. His friends were nowhere to be seen. Finally his eyes caught a piece of parchment arranged to attract his attention. It said, "We have waited till past midnight, and can delay no longer. We go to find the King. Follow us across the desert."

Artaban sat down in despair and covered his face with his hands. "How can I cross the desert with no food and with a spent horse? I must return to Babylon, sell my sapphire and buy camels and provisions for the journey. I may never overtake my friends. Only the merciful God knows whether or not I shall lose my purpose because I tarried to show mercy."

Several days later when Artaban arrived at Bethlehem, the streets were deserted. It was rumored that Herod was sending soldiers, presumably to enforce some new tax, and the men of the city had taken their flocks into the hills beyond his reach.

The door of one dwelling was open, and Artaban could hear a mother singing a lullaby to her child. He entered and introduced himself. The woman told him that it was now the third day since the three wise men had appeared in Bethlehem. They had found Joseph and Mary and the young child, and had laid their gifts at His feet. Then they had gone as mysteriously as they had come. Joseph had taken his wife and babe that same night and had secretly fled. It was whispered that they were going far away into Egypt.

As Artaban listened, the baby reached up its dimpled hand and touched his cheek and smiled. His heart warmed at the touch. Then suddenly, outside there arose a wild confusion of sounds. Women were shrieking. Then a desperate cry was heard, "The soldiers of Herod are killing the children."

Artaban went to the doorway. A band of soldiers came hurrying down the street. The captain approached the door to thrust Artaban aside, but Artaban did not stir. His face was as calm as though he were still watching the stars. Finally his out-stretched hand revealed the giant ruby. He said, "I am waiting to give this jewel to the prudent captain who will go on his way and leave this house alone."

The captain, amazed at the splendor of the gem, took it and said to his men, "March on, there are no children here."

Then Artaban prayed, "Oh, God, forgive me my sin, I have spent for men that which was meant for God. Shall I ever be worthy to see the face of the King?"

But the voice of the woman, weeping for joy in the shadows behind him said softly, "Thou hast saved the life of my little one. May the Lord bless thee and keep thee and give thee peace."

Artaban, still following the King, went on into Egypt seeking everywhere for traces of the little family that had fled before him. For many years we follow Artaban in his search. We see him at the pyramids. We see him in Alexandria taking counsel with a Hebrew rabbi who told him to seek the King not among the rich but among the poor.

He passed through countries where famine lay heavy upon the land, and the poor were crying for bread. He made his dwelling in plague-stricken cities. He visited the oppressed and the afflicted in prisons. He searched the crowded slave-markets. Though he found no one to worship, he found many to serve. As the years passed he fed the hungry, clothed the naked, healed the sick and comforted the captive.

Thirty-three years had now passed away since Artaban began his search. His hair was white as snow. He knew his life's end was near, but he was still desperate with hope that he would find the King. He had come for the last time to Jerusalem.

It was the season of the Passover and the city was thronged with strangers. Artaban inquired where they were going. One answered, "We are going to the execution on Golgotha outside the city walls. Two robbers are going to be crucified, and with them another called Jesus of Nazareth, a man who has done many wonderful works among the people. He claims to be the Son of God and the priests and elders have said that he must die. Pilate sent him to the cross."

How strangely these familiar words fell upon the tired heart of Artaban. They had led him for a lifetime over land and sea. And now they came to him like a message of despair. The King had been denied and cast out. Perhaps he was already dying. Could he be the same one for whom the star had appeared thirty-three long years ago?

Artaban's heart beat loudly within him. He thought, "It may be that I shall yet find the King and be able to ransom him from death by giving my treasure to his enemies."

But as Artaban started toward Calgary, he saw a troop of soldiers coming down the street, dragging a sobbing young woman. As Artaban paused, she broke away from her tormentors and threw herself at his feet, her arms clasped around his knees.

"Have pity on me," she cried. "And save me. My father was also of the Magi, but he is dead. I am to be sold as a slave to pay his debts."

Artaban trembled as he again felt the conflict arising in his soul. It was the same he had experienced in the palm grove of Babylon and in the cottage at Bethlehem. Twice the gift which he had consecrated to the King had been drawn from his hand to the service of humanity. Would he now fail again? One thing was clear, he must rescue this helpless child from evil.

He took the pearl and laid it in the hand of the girl and said, "Daughter, this is the ransom. It is the last of my treasures which I had hoped to keep for the King."

While he spoke, the darkness of the sky thickened and the shuddering tremors of an earthquake ran through the ground. The houses rocked. The soldiers fled in terror. Artaban sank beside a protecting wall. What had he to fear? What had he to hope for? He had given away the last of his tribute to the King. The quest was over and he had failed. What else mattered?

The earthquake quivered beneath him. A heavy tile, shaken from a roof, fell and struck him. He lay breathless and pale. Then there came a still small voice through the twilight. It was like distant music. The rescued girl leaned over him and heard him say, "Not so, my Lord; for when saw I thee hungered and fed thee. Or thirsty and gave thee drink? When saw I thee sick or in prison and came unto thee? Thirty-three years have I looked for thee; but I have never seen thy face, nor ministered unto thee, my King."

The sweet voice came again, "Verily I say unto thee, that inasmuch as thou hast done it unto done of the least of these my brethren, thou hast done it unto me."

A calm radiance of wonder and joy lighted the face of Artaban as one long, last breath exhaled gently from his lips. His journey was ended. His treasure accepted. The Other Wise Man had found the King.