
Chiều dần xuống buông bức màn tăm tối khắp núi đồi, hơi lạnh mang theo thành sương cũng phủ xuống khắp buôn làng. Những chiếc xe máy chạy với tiếng ồn ầm ầm tưởng chừng một động cơ lớn đang chạy ngoài đường để trở về nhà. Những chiếc xe máy không đèn, không còi và động cơ tự chế có thể lên núi mà người dân tự chế, để thuận tiện cho việc lên núi chở lúa ở ruộng bậc thang về và thu hoạch café được dễ hơn, vì đường lên núi nhỏ hẹp và dốc dác. Tiếng chào từ xa
- Niam să mơi
Nó chưa kịp chào lại thì chiếc xe đã vụt qua nó với âm thanh ồn ào. Những chiếc xe máy đang vội trở về nhà, tiếng xe ồn áo ấy là tiếng xe của người nghèo, nó đem theo tiếng thở dài của rừng núi, vì công việc làm nông trên núi nặng giọt mồ hôi của những con người vùng sơn cước này đang cố gắng dệt đời mình trong cái bình yên của núi đồi, chắt chiu từng hạt lúa, gói ghém bao lao nhọc nơi hạt café. Từng chiếc xe máy từ rẫy trở về vụt qua, nó cảm nhận được được sự vội vã trở về của những người cha người mẹ sau một ngày làm việc giờ đây trở về nhà.
Vì cái lạnh làm người ta tìm hơi ấm bên gia đình, bên bếp lửa là nơi quy tụ của một gia đình sau một ngày lao động trên nương rẫy. Ngôi nhà là nơi đi về, nơi mà người ta sống thật với chính mình nhất. Nơi ấy có những con người đang đợi ta về là thứ tình cảm mà người ta không thể quên là thứ tình cảm thiêng liêng níu người ta trở về nhà. Mỗi ngôi nhà dù nhỏ bé hay to lớn thì nơi ấy cũng là nơi che chở cho những con người trong đó. Nơi ngôi nhà ấy có hơi ấm của tình thân có mùi khói thuốc lá khét của ba, có mùi khói bếp cay nồng của mẹ, cái không khí se lành của vùng cao nguyên lúc nào cũng có. Sẽ lạnh hơn vào những ngày cuối năm chuyển mùa sang tiết đông cũng là thời gian bà con nơi đây thu hoạch lúa và café những vụ mùa đong đầy niềm vui khi lúa về sân, những hạt café được thu hoạch sau một năm mong mỏi chịu nhiều nắng mưa của vùng đồi núi này. Thời gian quây quần bên nhau trong mái nhà tưởng chừng bình thường nhưng thật quý giá bên mâm cơm đơn sơ với những món ăn từ rừng núi đem lại thì không thể thiếu vị cay nồng ấm lòng của ché rượu cần. Nó ngồi bên bếp thanh để nghe kể về rượu cần thứ rượu truyền thống của anh chị em người K'ho. Trong tiếng khàn đục mọ (bà) Ka Rền kể cho nó nghe:
Cách đây hàng trăm năm, khi chưa xuất hiện tiền, mọi giao dịch được thực hiện bằng hình thức vật đổi vật. Giá trị nhận được tương xứng, các bên đều hài lòng. Khi đó, người Chăm ở xứ Nam Trung Bộ, vốn là bậc thầy của kỹ nghệ gốm sứ, gùi ghè kẽo kẹt, nặng chịch trên vai. Đoàn người vượt hàng trăm cây số leo đèo, ngược lên miền rừng núi phía Tây tìm nơi tiêu thụ. Để sở hữu những chiếc ché quý, người K'ho cũng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên dùng trâu, bò hoặc hiện vật tương ứng để đổi. Ché càng đẹp, càng quý, vật đổi càng nhiều.
Người K'ho quan niệm rằng, những chiếc ché cổ là nơi trú ngụ của Yàng Tơr Nơm (thần rượu cần). Vì thế, có chiếc ché giá trị tương ứng tới vài con trâu. Để đánh giá gia cảnh, người ta chỉ cần nhìn vào gia đình đó có bao nhiêu chiếc ché. Loại ché đó dùng để thờ cúng hay ủ rượu. Khi dùng xong, ché quý được gia chủ cất giữ ở nơi trang trọng nhất trong nhà.
Là một nghề lâu đời, gắn liền với đời sống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán của người K'ho, rượu cần là một phần không thể thiếu trong các nghi lễ tôn giáo, các dịp lễ hội, cưới hỏi và các buổi sum họp gia đình. Người K'ho tin rằng, Yàng (Chúa tể thần linh - ông trời) đã ban phát cho người phụ nữ đôi tay khéo léo. Bàn tay ấy dùng để lên men rượu cần. Muốn có được ché rượu hoàn hảo, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước ngày ủ rượu cả tháng, người phụ nữ phải vào rừng sâu cất công đi tìm các loại cây rừng. Đó là bí kíp để làm men rượu cần.
Các loại cây, lá, rễ kết hợp, đem về rửa sạch, phơi khô. Chọn ngày nắng đẹp, những phụ nữ K'ho đem ra ngâm nước, giã nhuyễn với gạo nương thành thứ hỗn hợp sền sệt. Họ nắm thành từng viên gọi là men, đem phơi khô, treo lên bên bếp lửa nóng hanh hao để dùng dần.
Gạo ủ rượu cần nhất định phải giữ được lớp lụa, hạt gạo còn nguyên vẹn. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người phụ nữ. Chày giã đều đặn, không quá nhanh, cũng đừng chậm. Sức tì lên hạt lúa vừa đủ bung lớp vỏ trấu là được. Cơm nấu chín, độ mềm vừa phải, không được nhão cùng không được khô. Khi cơm nguội, lấy những miếng men lá treo trên gác bếp xuống làm sạch lớp khói bụi, giã nhuyễn, trộn đều.
Trước ngày làm rượu, những chiếc ché quý được đem ra rửa sạch, phơi khô ngoài trời nắng gắt. Người K'ho có cách phân biệt rượu ngon, rượu quý rất rõ ràng. Quý nhất là loại rượu được ủ trong ché sơn tộ. Kế đó là ché sơn lung, cuối cùng là yang prô tồr. Mức độ quý hiếm của ché rượu cần cũng được sử dụng để tương ứng với quy mô từng lễ hội, sự kiện. Loại gạo dùng để ủ rượu cần là gạo được sản xuất tại địa phương.
Rượu ủ sau một tháng thì lên men thơm lừng, đứng cách xa vẫn dậy mùi cuốn hút. Hương rượu cần lên men bằng lá cây rừng kích thích khứu giác của cánh đàn ông trong buôn. Chỉ chờ ngày hội buôn hay đình đám tiệc tùng, họ liền tụ tập, rủ nhau bê ra sử dụng. Rượu cần cho chất lượng thơm ngon nhất trong khoảng thời gian từ hai đến ba tháng sau khi ủ. Để quá lâu, hạt cơm lên men mạnh, rượu dễ bị chua, không còn giữ được hương vị thơm ngon đáng có.
Rượu cần và cồng chiêng là hai thứ không thể tách rời trong đời sống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Cồng chiêng mang giá trị về tinh thần, điểm tựa tâm linh. Rượu cần nghiêng về giá trị vật chất, hưởng thụ cuộc sống. Hơi men rượu cần làm cho con người thăng hoa, là sợi dây vô hình đưa người với người, cộng đồng với cộng đồng xích lại gần nhau, là sự kết nối giữa vật chất và tinh thần.
Tuy nhiên, đó chỉ là những nguyên liệu và cách là cơ bản mà người K'ho nào cũng biết làm, còn muốn làm được một bình rượu cần thật ngon thì không phải ai cũng biết làm vì mỗi gia đình, dòng họ đều có các bí quyết riêng và chỉ được truyền lại các thế hệ trong gia đình, dòng họ của mình, tuyệt đối không cho người ngoài biết. Bên cạnh đó vì người K'ho theo chế độ mẫu hệ nên thông thường những bí quyết của nghề chỉ được truyền lại cho những người phụ nữ trong gia đình, dòng họ chứ không truyền lại cho đàn ông.
Văn hóa rượu cần như một phần tinh thần của anh chị em đồng bào K'ho ché rượu cần vẫn có đó trong từng ngôi nhà làm say men người trong ngôi nhà ấy là ấm lòng những buổi lễ hội, và rồi khi theo biết Đạo Chúa thì Yàng Tơr Nơm (thần rượu cần), không còn làm say mờ lòng mê tín của người đồng bào nơi đây nữa, rượu cần chỉ còn xuất hiện trong các buổi tiệc long trọng thôi. Rượu cần như một phần văn hóa đặc sắc của người đồng bào nơi đây, làm nên những người Kitô hữu có Yàng (Thiên Chúa) làm chủ trong mọi mái nhà. Rượu cần là thế làm say mê lòng người trong những buổi lễ hội, thì hôm nay nơi mái nhà Rông giữa buôn là nơi quy tụ mọi người đến tham dự Thánh Lễ và nơi ấy có một thứ rượu mới nuôi sống đời sống thiêng liêng của con người, thứ rượu quý giá trở thành Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra trong từng Thánh Lễ quy tụ những tâm hồn đơn sơ trong một niềm tin có Yàng làm chủ cuộc sống mình. Nếu rượu cần phải châm thêm nước khi ché rượu vơi đi và khách đã ngà ngà say và làm người ta quên đường về nhà. Thì nơi Thánh lễ ấy rượu Mới làm người ta nhận ra mình thật hạnh phúc có một Thiên Chúa nghèo vẫn ở đó trong ngôi nhà Rông chờ con cái đến để chăm sóc và yêu thương con người và người ta càng đến càng say bình an mà Yàng đem lại cho mỗi tâm hồn con người, thứ rượu của Yàng không cần châm thêm nước chỉ cần châm thêm lòng mến tin để say mãi tình yêu Yàng và anh chị em mình.
【Maria Hồng Hà CMR】
NGUỒN:
