Hàn Mạc Tử và Chúa

Quang X Nguyen

Mộ Hàn Mạc Tử tại trại phong Qui Hòa

Hàn Mạc Tử: một kiếp khổ đau!

Vào buổi trưa ngày 11 tháng 11 năm 1940, một người nằm xuống sau nhiều năm tháng đau đớn, nứt nẻ thịt da. Ông là bệnh nhân của trại cùi Qui Hòa mang số hiệu 1314. Trên cây Thánh giá trồng trên mộ phần của ông, ghi hàng chữ Phêrô[1] Phanxicô Nguyễn Trọng Trí. Đây chính là nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Ông vừa giống lại vừa khác thế nhân chúng ta. Giống ở chỗ cùng mang kiếp nhân sinh, với thịt xương và một cấu trúc thần kinh cao đẳng, biết ăn, biết ngủ, biết cảm xúc, biết tư duy. Nhưng khác ở chỗ: Thế nhân chết đi thì rơi vào quên lãng, tĩnh mịch, còn Hàn Mạc Tử chết rồi nhưng tiếng thơ còn mãi! Chúng ta chết rồi, linh hồn có thể còn khắc khoải chưa biết về đâu vì “không trang bị” một niềm tin tưởng siêu linh, còn Hàn Mạc Tử thuở sanh tiền đã đối đầu và tôi luyện trong nỗi đau khổ cực điểm nên linh hồn đã được thăng hoa trong một niềm tin vào Chúa!
Nhìn lại phong trào thơ mới ở Việt Nam khoảng 1932-1945, sự xuất hiện của tiếng thơ dồi dào và sâu đậm nhất trong khuynh hướng nói về cõi Chết, về siêu hình, nhất là về Chúa thì độc nhất có Hàn Mạc Tử.
Tập Thơ điên của Hàn Mạc Tử khiến người đọc bỗng hoàn toàn rời khỏi cái thế giới thực tại của thế nhân, đến nỗi Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam phải thảng thốt viết rằng:
“Một tác phẩm như thế, ta không thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn... Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu...”
Ông Hoài Thanh thú nhận rằng ông phải bỏ ra ròng rã “ngót một tháng trời” để đọc toàn bộ thơ của Hàn Mạc Tử và ông “đã mệt lả” (sic) (tr. 205). Kể ra thật đúng khi ta tìm gặp rất nhiều câu thơ như sau:
Hồn của Hàn Mạc Tử không những chỉ vơ vưởng trong cõi vô hình mà nhiều lúc đã:
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng... .
Gào thét một hồi cho rởn ốc
Cả thiên đàng, trần gian và địa ngục
(Hồn là ai?)
Hồn có lúc lạc vào nơi thiên sầu, địa thảm giới Lâm bô, có lúc lại bay ra ngoài vũ trụ để:
Tắm gội trong nguồn ánh sáng,
Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng.
Hoặc có lúc tinh khiết, nhẹ nhàng ngoài mức ngôn ngữ phàm tục:
Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đồi trăng mọc nước Huyền vi
Đây miên trường, đây vĩnh cửu, tề phi
(Đừng cho lòng bay xa)
Hàn Mạc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mạc Tử là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ (universel).

Hoài Thanh trong cuốn Thi Nhân Việt Nam (1941) nhận định rất đúng rằng:
“Hàn Mạc Tử và Chế Lan Viên, cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mạc Tử đã đi ngược lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh kinh của đạo Thiên Chúa”.

Chính nhờ Thánh kinh và tinh thần Tin Mến Cậy sốt sắng vào Thiên Chúa, thơ Hàn Mạc Tử đưa người đọc gần Chúa vô cùng!

Hàn Mạc Tử vướng vào bệnh cùi lúc tuổi còn trẻ đang lúc yêu đời. Bệnh này như một định mệnh đã đọa đày Hàn Mạc Tử trong một vũng đau thương tuyệt vọng:
 Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
(Những giọt lệ)
 Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bồi hồi ruột gan
(Muôn năm sầu thảm)
 Hàn Mạc Tử trong bài “Hồn là ai” đã tự mô tả cái hành hạ thể xác bằng giọng thống thiết sau:
 Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng
Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
 Dựa vào sự phát triển của bệnh cùi trong đời ông, ta thấy ba giai đoạn tương ứng trong thi nghiệp của ông:
1) Giai đoạn tiền bệnh: trước năm 1936 (nghĩa là trước lúc vô bệnh viện Qui Hòa (1937), đánh dấu bằng những tập “Đường luật” và Gái quê với một giọng trong sáng, nồng thắm, yêu đời cuồng nhiệt, một khí lực phương cương dồi dào tính dục trong lứa tuổi đôi mươi.
2) Giai đoạn bệnh phát lộ đánh dấu bằng tập thơ Đau thương, Thơ điên nên tiếng thơ thống thiết, cực kỳ bi thảm như một con chim biết rằng mình sắp chết. Thiên kiến của người đời xa lánh mình cộng vào đó sự đau khổ vì tình duyên trắc trở đã làm Hàn Mạc Tử càng đau khổ:
Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết u buồn của nước mây
Của những tình duyên thường lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may
3) Giai đoạn cuối cùng của Hàn Mạc Tử được định mốc bằng tập thơ Xuân như ý. Khi ý thức rằng mình không còn hy vọng sống lâu Hàn Mạc Tử càng tìm nguồn giải thoát cho linh hồn khắc khoải qua tôn giáo và những khải thị siêu phàm. Giọng thơ không còn rên rỉ, mà thanh thoát, thăng hoa.
Nhà thờ Qui Hòa năm 1937
Nhà thờ Qui Hòa năm 1937

Vào bệnh viện Qui Hòa, thi nhân đã tập được đức tính an vui trong nguồn đau khổ. Trong một lá thơ gửi cho ông bạn thân là Trần Thanh Địch, Tử kể lại rằng mỗi ngày đều đều ông liên lỉ ít nhất năm sáu lần vừa đọc kinh vừa ngâm thơ.

Nhưng ba tháng sau, cơ thể quá suy kiệt và thêm bị chứng kiết lỵ nên vài ngày thì tạ thế (ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 29 tuổi).

Trên giuờng bệnh, biết mình sắp chết, tâm hồn thi nhân vẫn vô cùng sáng suốt và giữ một thái độ bình thản như sốt sắng viết một bản kinh nguyện bằng tiếng Pháp là La Pureté de l'âme (Sự thanh khiết của linh hồn) để dọn mình về với Chúa.
Trên chủ trương sáng tác thi văn của ông, Hàn Mạc Tử đã khẳng định lý tưởng Thiên Chúa giáo của mình:
“Đức Chúa Trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch” (Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).

Đọc thơ của Hàn Mạc Tử, người ta đã tìm thấy Thánh kinh, cho nên lời thư viết trên này chỉ là phô diễn cái ý cốt tủy cho rằng thế gian này tạo ra do lòng yêu và vinh quang của Thiên Chúa. “Chính cái chìa khóa tình yêu đã mở tay Thiên Chúa tạo dựng các loài” (thánh Thomas d'Aquin). Sự sáng tạo là điều Chúa muốn như là một ân tứ dành cho con người, như là một tài sản chuyển đạt và giao phó cho con người thụ hưởng (Car la création est voulue par Dieu come un don adressé à l'homme, comme un héritage qui lui est destiné et confié.- Catéchisme de l'Église Catholique 1997).

Nhưng theo Tử, thì con người phàm tục thế gian ít khi hiểu được và mang ơn “loài thi sĩ” nếu không nói là vô tình bạc đãi khinh khi.

Qua biểu tượng Máu và Hồn, Tử đã vô tình dự phóng bản ngã của mình trên hình ảnh của Chúa Giêsu nêu gương cứu chuộc trong buổi Tiệc Ly với lời nói cuối cùng với các môn đệ trên bánh thánh và rượu nho: “Này đây là Mình Ta, hãy cất lấy mà ăn. Này đây là chén Máu Ta, hãy cất lấy mà uống”.

Hàn Mạc Tử, khi viết tựa cho tập Tinh Huyết của Bích Khê đã viết rằng:
“Sáng tạo là điều kiện cần nhất, tối yếu của thơ, mà muốn tìm nguồn cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế, thơ văn mới trở nên trọng vọng, cao quí, có một ý nghĩa thần bí”.

Đọc nhiều thơ của Hàn Mạc Tử, người ta thấy tràn ngập nào là ánh sáng, nào là hương, nào là hoa, nào là châu báu, nào là tiếng nhạc, nào là lời kinh... ít ai ngờ đó là khung cảnh trang hoàng để phụng vụ trong những giáo đường Công giáo trong thực tế mà trí tưởng tượng phong phú của thi nhân đã chuyển hóa ra thành những lời thơ trọng vọng... Ngay cả những lời thơ trùng trùng điệp điệp về sự vãi máu, nôn khạc huyết ra từ cổ họng của Hàn Mạc Tử, biết đâu chẳng đã được gợi hứng từ hình ảnh con chim bồ nông mổ ngực để máu vọt ra cho đàn chim con xúm lại mà uống – hình này thường được chạm trên cánh cửa của Nhà Tạm đựng Mình Thánh Chúa trên bàn thờ của giáo đường. Chim bồ nông – pélican – là loài thủy điểu, khi bắt được mồi thường nuốt tạm và chứa trong cái bìu da ở cổ họng để đem về cho bầy con mổ vào họng mình ra mà ăn. Do đó, có truyền thuyết là chim bồ nông tự mổ ngực mình ra để lấy máu nuôi con.

Thánh Thomas d'Aquin trong Vần thơ Thánh vịnh (Rhythmus Sancti) đã dùng hình ảnh chim này mà ca vịnh Thánh thể nơi Chúa Giêsu đổ huyết ra vì nhân loại. Còn Alfred de Musset, nhà thơ Pháp (1810-1857), đã thi vị hóa hình ảnh bồ nông như thân kiếp của thi nhân làm thơ bằng máu lệ của mình trong một bài thơ danh tiếng.

Hàn Mạc Tử lấy hứng về thi liệu từ Kinh thánh và những bài kinh nguyện của tín đồ Công giáo để xây dựng tứ thơ của mình.
Bài Thánh Nữ Đồng Trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng hai hàng lệ 
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm
Đọc Ave Maria, ta cảm thấy được sự cao sang của Đức Trinh Nữ
Đọc Ave Maria, ta cảm thấy được sự cao sang của Đức Trinh Nữ
Theo Linh mục Phan Phát Huồn, bài AVE MARIA của Hàn Mạc Tử mà trong đó có các đoạn thơ trên đây đã gây một xúc cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc, Công giáo hay không Công giáo. Đọc bài thơ này người ta liên tưởng tới bài LA VIERGE À MIDI của Paul Claudel, hai bài thơ đều nói về Trinh Nữ Maria nhưng hai giọng văn khác hẳn. Đọc lên bài thơ của Claudel ta chia sẻ những tâm tình của một người vô thần sau khi đã quay về với Chúa, tỏ tình rất mực đơn sơ với Trinh Nữ. Đọc lên bài Ave Maria của Hàn Mạc Tử, ta cảm được, ta sờ được, ta thấy được sự cao sang của Trinh Nữ.

Trong thi ca của Hàn Mạc Tử, người ta còn bắt gặp một ý thơ khác lấy từ Kinh Tin Kính như:
Ngày tận thế là ngày tán loạn
Xác của Hồn, Hồn của Xác y nguyên.
Hàn Mạc Tử lại mang cái thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải huyền về thành thánh Giêrusalem: “ánh quang của thành tỏa ra tựa hồ minh châu cực quí, như ngọc thạch bóng lộn ánh lưu ly... “ vào bài Xuân đầu tiên của mình qua câu:
 Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm
Còn mặt trời kia tợ khối vàng 
Trên chín tầng diêu động cả trân châu
Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết.
Khảo sát về thơ Hàn Mạc Tử, chúng ta nhìn thấy một thiên tài. Bệnh hoạn và nghịch cảnh chỉ là những tác nhân duyên khởi đã bức bách thiên tài này sáng tác ra nhiều bài thơ kỳ lạ như những hạt cát khiến những con trai dưới biển sanh ra những hạt trân châu.

Với Hàn Mạc Tử, sự đau đớn về thể xác, niềm tủi cực về tinh thần cũng gây ra một phản ứng điên đảo khiến ông cười, nói, gào, thét lung tung để giải thoát tâm tư. Nhưng ông không hề loạn trí, nghĩa là điên thực sự mà nói năng không mạch lạc theo luận lý. Tập Thơ điên là sự chuyển hoá sự đau khổ qua một “hiện tượng thoái hồi” như là một phản ứng chống đỡ tự nhiên để giữ quân bình lành mạnh cho trí óc.

Hàn Mạc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế.

Ở Hàn Mạc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp vào trí tưởng của thi nhân.

Hàn Mạc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví mình: “khi xưa ta là chim phượng hoàng, vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất”; ý tứ mình “cao cường hơn ngọn núi”; hồn mình “chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây”

Trong bài viết Mùa Chay: Suy nghĩ về Đau Khổ trong Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu giúp số 223, tháng 03-2005, tác giả Thế Hùng đã viết:

“Chúa Giêsu là gương mẫu sống động cho những người đau khổ” Chúa Giêsu không cho chúng ta một câu trả lời trừu tượng về vấn nạn đau khổ. Hơn thế, Ngài cho chúng ta một câu trả lời sống động và một gương mẫu để đi theo. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chỉ ra điều này một cách rõ nét trong Tông Thư năm 1984 “Salvicifi Doloris” (Ý nghĩa về Đau khổ con người theo Kitô giáo). Ngài viết rằng khi có ai hỏi Chúa Kitô tại sao con người phải đau khổ, người đó “không thể không chú ý đến Người đặt câu hỏi vì chính Người đó cũng đau khổ và ao ước trả lời câu hỏi đó từ chính thập giá, từ con tim đau khổ của Người” Chúa Kitô không giải thích một cách trừu tượng lý do vì sao có đau khổ, nhưng trước hết, Ngài nói:
“Hãy theo Ta! Qua cuộc đau khổ của con, con hãy dự phần vào công cuộc cứu rỗi thế giới. Dần dần khi cá nhân đó vác lấy thập giá mình, trong tinh thần liên kết với thập giá Chúa Kitô, ý nghĩa cứu độ của đau khổ sẽ hiện ra trước mắt người đó”.

Hàn Mạc Tử lại dự phóng sự đau khổ của mình như hình ảnh cứu chuộc của Chúa Giêsu: qua một hiện tượng “tự đồng hoá” (identification) với Chúa Kitô về tuẫn đạo (Martydom). Hàn Mạc Tử đã tự gán cho mình vai trò làm Thi Nhân đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng. (Thay lời Tựa - Xuân như ý). Trong bài Nguồn thơm, Hàn Mạc Tử đã nhiệt tình tôn vinh những người đã vác Thập giá theo chân Chúa Giêsu:
Đây, thi sĩ của đạo quân Thánh giá
Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô
Để sớt cho cả xuân, xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ

Hàn Mạc Tử lại còn tha hóa tình cảm của mình khi mơ đến một “mùa Xuân Thái Hòa” của “năm muôn năm, trời muôn trời” cho cả và thiên hạ.
Linh hồn của con người đau khổ thường hay lên gần Chúa. Đó là tâm trạng của Hàn Mạc Tử trong những ngày cuối cùng bệnh hoạn, khổ đau trong trại cùi Qui Hòa. Hàn Mạc Tử đã thị kiến đến một mùa Xuân như ý: “Vinh quang Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Câu thánh vịnh về mùa Giáng Sinh này đã khơi nguồn cho Hàn Mạc Tử khi viết như sau:
Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước!
Phút thiêng liêng nhuần gội áng thiều quang
Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian
(Nguồn thơm)
Ý thơ của Hàn Mạc Tử trong tập Xuân như ý khai triển một cách kỳ diệu vô cùng. Tử cho rằng mình giống Khổng Tử khi chép kinh Xuân Thu với một cảm hứng dào dạt:
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm
Câu tàn tạ không khen long cả phiếm
Bút Xuân Thu mùa nhạc đến vừa khi
(Đêm xuân cầu nguyện)
Sự thăng hoa của Hàn Mạc Tử được kết tinh bằng hình ảnh của một thiên đường đầy vẻ đẹp tuyệt vời mà con người không còn than khóc, đau khổ nữa, một thiên đường đầy: “Nhạc thơm, hương ấm, mộng ngọc, hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm”.

Câu nói của thi sĩ Pháp Alfred de Vigny: “Những khúc hát tuyệt vọng nhất là những khúc hát đẹp vô vàn” phải chăng rất đúng khi áp dụng vào trường hợp của nhà thơ vô cùng khổ đau Hàn Mạc Tử.

Như là một lời kết, chúng ta hãy nghe Linh mục Phan Phát Huồn nhận định rằng “Hàn Mạc Tử bằng thi thơ của mình muốn nói lên điều mà ông TIN, điều mà các nhà thần học đã tốn biết bao nhiêu mực, bao nhiêu giấy từ thế kỷ này qua thế kỷ khác nói về sự kiện lịch sử Chúa xuống thế làm người, về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng của Trinh Nữ Maria” (Đức Tin trong thơ Hàn Mạc Tử - Tựa cho cuốn Hàn Mạc Tử: Đau Khổ và Thơ của Lê Văn Lân).

Với tâm tình của người yêu thơ Hàn Mạc Tử, bài viết này xin được xem như một nén tâm hương cho một thi hào đã dùng những đau khổ và máu lệ của mình mà nhào nặn ra biết bao lời thơ đẹp và sâu sắc tuyệt vời như những hạt kim cương.

Bs Lê Văn Lân
(Trích lại theo www.Dunglac.org)


Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 235-244.




[1] Chúng tôi có hỏi nữ tu Gemma Phương Khanh, Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng, cháu gọi nhà thơ Hàn Mạc Tử bằng cậu, về tên thánh Phêrô ghi trên mộ. Chị cho biết có lẽ do một lầm lẫn nào đó, còn tên thánh của nhà thơ là Phanxicô; trong gia đình khi cầu nguyện cho nhà thơ thì luôn đọc “cầu cho linh hồn Phanxicô” (TTT).