Từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ, ca dao tiếng Việt- Tác giả: Lm Giuse Vũ Văn Khương

Anne de Jesu



TỪ NGỮ CÔNG GIÁO TRONG MỘT SỐ TỤC NGỮ, CA DAO TIẾNG VIỆT

(Catholic words in some Vietnamese proverbs and fork-songs)

Linh mục Giuse Vũ Văn Khương



Tóm tắt: Đối với người Công giáo, Đạo không phải một cái gì cao siêu vượt lên sinh hoạt đời thường, nhưng đi vào trong sinh hoạt đời thường, làm cho đời thường bớt dần tính “thường” hơn. Chính vì thế, cho dù khi du nhập, Việt Nam đã thấm nhiễm các yếu tố Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, thì Công giáo vẫn ghi lại những dấu ấn riêng của mình góp phần làm cho văn hóa nước ta thêm phong phú. Các từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ ca dao có mặt trong nhiều lãnh vực đời sống mà bài báo nghiên cứu là một phần khẳng định cho nhận định đó.

Từ khóa: Ngôn ngữ học, ngôn ngữ và tôn giáo, từ ngữ Công giáo, tục ngữ, ca dao.

Abstract: For Catholic, Christian faith is not considered as something sublime beyond the ordinary, but going into daily life and turning it gradually less “regular”. Hence, even though the time of being introduced to Vietnam, people had been penetrated elements of Confucianism, Taoism, and Buddhism; Catholicism still made its own imprint, which has contributed more diversified Vietnam culture. The Catholic terms appearing in some proverbs and fork-song are present to many areas of life, which the study is a part of that affirmation.

Keywords: Linguistics, language and religion, Catholic terms (Catholic lexicology), proverbs, fork-song.

1. Đặt vấn đề

Tiến sĩ Nguyễn Huy Thông viết: “Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của cộng đoàn này.” [8]. Đây là một nhận định có phần “rộng rãi” vì các đơn vị có thể được gọi là ca dao, tục ngữ Công giáo tại nước ta có số lượng tương đối hạn chế. Tuy nhiên, phát biểu của nhà nghiên cứu uy tín về Công giáo tại Việt Nam này đã cung cấp một sự nhìn nhận chính thức mang tính học thuật cho sự hiện diện những “ca dao, tục ngữ Công giáo” trong kho tàng văn học dân gian Việt. Bài viết của chúng tôi lựa chọn những ca dao, tục ngữ chứa những từ ngữ được dễ dàng nhận biết có nguồn gốc Công giáo để nghiên cứu.

2. Các ca dao tục ngữ về lao động sản xuất

Bên cạnh những câu ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất rất phổ thông như:

Tháng chạp là tháng trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà....

Thì cũng có những câu mang đặc trưng Công giáo mà người đọc dễ dàng nhận ra. Chẳng hạn nói về thời hạn mùa vụ trồng bí của bà con:

Lễ Rosa thì tra hạt bí

Lễ Các thánh thì đánh bí ra.

Theo kinh nghiệm của người nông dân vùng Công giáo, cứ lễ Rôsa thì tra hạt ươm giống, lễ Các Thánh thì đánh cây giống xuống ruộng thì hợp với thời tiết và mùa vụ của giống cây trồng này.

Hay nói về thời gian mùa vụ cấy lúa vụ chiêm đông xuân, thì có:

Lễ Các Thánh gánh mạ đi gieo

Lễ Sinh Nhật giật mạ đi cấy…

Trong các câu ca dao – tục ngữ về lao động sản xuất này, chúng ta nhận thấy có các từ ngữ vốn là các biệt ngữ Công giáo như: lễ Rôsa (vào ngày 07 tháng 10 dương lịch), lễ Các Thánh (vào ngày 01 tháng 11 dương lịch), lễ Sinh Nhật (còn gọi là lễ Giáng Sinh hay lễ Noel tổ chức vào ngày 25 tháng 12 dương lịch). Đây là tên gọi các ngày lễ Công giáo đã vượt qua ranh giới của ngôn ngữ phụng vụ (ngôn ngữ tôn giáo), đi vào trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường ở một mức độ “phi biệt ngữ hóa” khá cao là ca dao – tục ngữ.

3. Các câu ca dao – tục ngữ về tình yêu, hôn nhân, gia đình

Cũng như lãnh vực về thời tiết và lao động sản xuất, mảng về tình yêu hôn nhân gia đình là một mảng khá phong phú về số lượng sáng tác trong kho tàng ca dao – tục ngữ Việt Nam.

Khảo sát mảng ca dao tục ngữ này, chúng tôi xác định được một số đơn vị từ ngữ Công giáo, ví dụ:

Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ

Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau

Nội dung câu ca dao: Nhắc nhở các đôi nam nữ giữ lòng trinh tiết, là luật bắt buộc đối với những ai chưa bước vào đời sống hôn nhân.

Amen, lạy Đức Chúa Trời

Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau.

Nội dung câu ca dao: lời cầu xin hàm chứa tinh thần phản kháng trước truyền thống của Giáo hội Công giáo về việc hạn chế kết hôn giữa người có đạo và người không có đạo.

Em lạy Đức Chúa Ba Ngôi

Em lấy được vợ em thôi nhà thờ.

Nội dung câu ca dao: Câu ca dao vui có ý nhắc nhở các chàng trai ngoài Công giáo chỉ theo đạo với mục đích cưới vợ.

Giải thích các từ ngữ Công giáo:

Amen (阿门, Amen, Amen, Amen)[1]: Từ gốc Hipri với nghĩa đúng thật như vậy, ước gì được như vậy. Vì thế, Amen có thể được dùng để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, sự chân thật, vững vàng trong các lời hứa của Ngài và lòng trông cậy của con người đối với Ngài (3: số 1062).

Trong Cựu Ước, đặc biệt trong sách tiên tri Isaia có kiểu nói “Thiên Chúa của Amen”, nghĩa là Thiên Chúa Chân Thật (x. Is 65,16)[2]. Amen còn biểu lộ sự đồng tình với một lời nói (x. Gr 28,6)[3], chấp nhận một sứ mệnh (x. Gr 11,5)[4], thừa nhận một cam kết (x. Ds 5,22)[5] và kết thúc một lời nguyện hay một lời tôn vinh Thiên Chúa (x. Tv 41,14)[6].

Trong Tân Ước, Amen được Chúa Giêsu dùng như là công thức mạc khải, nhấn mạnh những gì Người nói là chính Lời của Thiên Chúa (x. Mt 6,2)[7]. Amen được sách Khải Huyền dùng như tước hiệu của Chúa Giêsu: “Người là Amen của Thiên Chúa vì Người thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Kh 3,14)[8]. Trong Phụng vụ, Amen được cộng đoàn sử dụng như công thức để hiệp thông với chủ tế, tin nhận và tôn vinh Thiên Chúa (3: số 1345).

Đạo (宗 敎, Religio, Religion, Religion): Tôn giáo. Thường dùng trống có nghĩa là đạo Thiên Chúa (Công giáo): Theo đạo (theo Công giáo), Người có đạo (người Công giáo), Nhà thờ đạo (nhà thờ Công giáo), Bỏ đạo (bỏ Công giáo). [6:388].

Đời (Monde laique): Bên ngoại hay bên ngoài (đối với bên đạo, tức Công giáo): Cô ấy đã trở về đời. [6:447]

Đức Chúa Trời (天 主, Deus, God, Dieu): Từ do linh mục Alexandre de Rhodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) đặt trong tiếng Việt để gọi Đấng Tối Cao của người Công giáo, có ý hội nhập văn hóa với danh xưng Ông Trời trong văn hóa thờ Trời của người Việt Nam. Từ ngữ Công giáo tiếng Việt còn một danh xưng đồng nghĩa nữa thường dùng hơn là Thiên Chúa.

Đức Chúa Ba Ngôi (天 主 聖 三, Trinitas, Trinity, Trinité): Khái niệm duy chỉ có nơi Kitô giáo về Đấng Tối Cao. Một Thiên Chúa duy nhất mà có ba ngôi vị là Cha – Con – Thánh Thần, còn gọi là Tam Vị Nhất Thể. Ba Ngôi Vị chỉ là một Thiên Chúa, vì mỗi Ngôi Vị đều có trọn vẹn bản thể duy nhất và không thể phân chia (3: số 48). Niềm tin này khởi đi từ mạc khải của Đức Giêsu rằng Thiên Chúa duy nhất (x. Mc 12,29)[9] và cũng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19)[10]; còn gọi là Thiên Chúa Ba Ngôi hay Chúa Ba Ngôi.

Nhà thờ: (教堂, Ecclesia, Church, Église): còn gọi là thánh đường hay giáo đường, khác với nhà thờ họ, nhà thờ tổ của tín ngưỡng thờ kính Tổ tiên. Nhà thờ Công giáo được xây dựng theo các quy định buộc phải tuân thủ đã ghi trong Giáo Luật (3: số 1215 - 1222), có cấu trúc gồm phần cung thánh và phần dành cho giáo dân. Phần cung thánh gồm có bàn thờ để cử hành Thánh lễ, giảng đài để công bố Lời Chúa, nhà Tạm để cất giữ Mình Thánh Chúa. Nhà thờ vừa là nơi cộng đoàn giáo hữu quy tụ để thờ phượng Thiên Chúa, cử hành các Bí tích, vừa tượng trưng cho sự hiện diện của Hội Thánh toàn cầu trong địa phương đó.

4. Ca dao, tục ngữ về đời sống tôn giáo

Giốc một lòng trông một Đạo

Nội dung tục ngữ: Răn dạy người tín hữu trung thành giữ đức tin và luật đạo.

Có thực mới vực được Đạo.

Nội dung tục ngữ: Muốn giữ được luật đạo thì đời sống vật chất phải khả dĩ ổn định đã. Câu tục ngữ này thường bị coi là mang ý nghĩa tiêu cực.

Đi đạo lấy gạo ăn ngay

Hay

Đi đạo lấy gạo mà ăn

Nội dung tục ngữ: Theo đạo chỉ vì lợi ích vật chất chứ không có niềm tin tâm linh, tôn giáo. Ý nghĩa tiêu cực.

Xưa kia chỉ biết kêu trời,

mà nay đã biết gọi Trời là Cha,

trần gian chẳng phải là nhà,

đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.

Nội dung ca dao: Câu ca dao nói lên niềm vui của người tìm thấy chân lí đức tin trong Công giáo khi theo đạo; thấy được Ông Trời vẫn tôn kính theo văn hóa giờ không còn xa lạ nhưng là cha của mình, và thấy được lời hứa quê hương vĩnh cửa ở đời sau.

‘Thiếu Nhi Thánh Thể nhiệm mầu

Tôn sùng rước lễ nhà chầu viếng thăm

Nội dung ca dao: Giáo huấn tinh thần đạo đức tôn sùng Mình Thánh Chúa Giêsu cho các cháu thiếu nhi Công giáo.

Các thầy đọc tiếng La Tinh

Các cô con gái thưa kinh dịu dàng

Nội dung ca dao: Nói lên vẻ đẹp của phụng vụ Công giáo.

Để dễ nhớ các ngày lễ trong năm, dựa vào bài ca dao “Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà...”, người Công giáo vùng Bùi Chu – Phát Diệm có bài ca dao 12 tháng lịch phụng vụ như sau (Bài ca dao này sử dụng các tháng âm lịch để tính ngày lễ. Đây là điều hiếm.):

Tháng giêng ăn tết ở nhà

Tháng hai ngắm đứng, tháng Ba ra mùa,

Tháng Tư tập trống rước hoa,

Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng Năm.

Tháng Sáu kiệu ảnh Lái tim

Tháng Bảy chung tiền đi lễ Phú Nhai,

Tháng Tám đọc ngắm Văn Côi,

Trở về tháng Chín xem nơi chồng mồ.

Tháng Mười mua giấy sao tua

Trở về Một Chạp sang mùa ăn chay.

Giải thích một số từ ngữ Công giáo:

Ảnh Lái tim: Lái tim là từ cũ của Trái tim. Ảnh/tượng Trái tim là cách gọi vắn gọn của ảnh/tượng Trái tim Chúa Giêsu. Tháng Sáu trong lịch Công giáo là tháng kính Trái tim Chúa Giêsu nên các xứ họ đạo có các cử hành kiệu rước tượng/ảnh Trái tim Chúa để tôn kính.

Cha (天 主父, Deus Pater, God the Father, Dieu-Père): cách gọi tắt của “Chúa Cha” là danh của Ngôi thứ nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Trong dân Israen, Thiên Chúa được gọi là “Cha”, vì là đấng tạo dựng trần gian (x. Đnl 32,6)[11]. Ngài cũng được gọi là cha của vua Israen (x. 2Sm 7,14)[12] và của người nghèo (x. Tv 68,6)[13].

“Chúa Giêsu đã mạc khải Thiên Chúa là “Cha” theo một nghĩa chưa từng có: Ngài là Cha (...) trong tương quan với Con duy nhất của Ngài, Đấng từ đời đời là Con trong tương quan với Cha của Người” (3: số 240).

Chầu giờ: Cách gọi quen của Giờ Chầu, tức một phiên (không hẳn là một tiếng) tôn kính Thánh Thể của các tín hữu. Làm trạm chầu giờ là việc làm các trạm trên đường đi kiệu trong ngày lễ Sangti tôn kính Thánh thể.

Chồng mồ: Trong nghi thức nguyện giỗ cầu hồn cho người qua đời, ở một số giáo xứ xưa kia có làm giả áo quan, nhà mồ đặt giữa nhà thờ để người giáo dân có lòng thương cảm, sốt sắng hơn khi cầu nguyện.

Mùa ăn chay: Thường gọi là Mùa Chay, khoảng thời gian phụng vụ kéo dài 40 ngày từ thứ Tư lễ Tro đến trước lễ Phục Sinh. Đây là mùa cầu nguyện, sám hối để các tín hữu dọn mình mừng lễ Chúa sống lại cách hiệu quả hơn.

Ngắm đứng: Nghi thức tôn giáo của riêng Công giáo tại Việt Nam do linh mục Alexandre de Rhodes khởi xướng từ đầu thế kỉ XVII, để giúp người giáo dân có tâm tình hơn khi đọc ôn lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Ngắm Văn Côi: Cách đọc kinh Văn Côi (hoa hồng) kính Đức mẹ theo cung ngâm.

Nhà Chầu: Nơi đặt Bánh Thánh (Mình Thánh Chúa Giêsu) để giáo dân tôn kính. Thường thiết kế như một một tủ nhỏ.

Phú Nhai: Tên một xứ đạo lớn ở giáo phận Bùi Chu, thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngày 8 tháng 8 dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Bảy) là lễ kính thánh Đa Minh, quen gọi là lễ Đầu Dòng, một lễ được các địa phận Dòng tổ chức trọng thể, nhất là ở nhà thờ Phú Nhai, tập trung nhiều giáo sĩ và giáo dân tham dự.

Ra mùa: Nói tắt của “Ra mùa Chay” hay “Ra mùa Thương Khó”, tức lễ Phục sinh mừng Chúa Giêsu sống lại, kết thúc mùa Chay (hay mùa Thương Khó).

Rước hoa: Lễ nghi kiệu rước tôn kính Đức Mẹ Maria tổ chức đặc biệt vào tháng Năm dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Tư). Gọi là rước hoa, kiệu hoa hay tháng Hoa vì các cuộc kiệu rước trong tháng này điểm đặc trưng nổi bật là việc trang hoàng nhiều hoa lá, nhưng thực chất vẫn là rước và kiệu Đức Mẹ.

Rước lễ: Nghi thức Công giáo chỉ việc các tín đồ cung kính đón nhận và ăn Bánh Thánh (hiểu là Thân thể Chúa Kitô).

Thầy: Từ xưng gọi dành cho những người đi tu phục vụ Giáo Hội ở nhiều giai đoạn, thứ bậc khác nhau, trước khi làm linh mục. Sau khi làm linh mục thì gọi là cha. Chẳng hạn: Thầy già, thầy dòng, thầy La Tinh, thầy lý đoán, thầy triết, thầy thần, thày giảng, thầy phó tế...

Thiếu nhi Thánh Thể: Tên gọi của một tổ chức mang tính chất rèn luyện đời sống đạo đức, nhất là gắn liền với việc tôn sùng Thánh Thể Chúa Giêsu, cho các thiếu nhi Công giáo.

Thưa kinh: Đọc kinh ở phần đáp. Một số kinh hoặc lễ nghi Công giáo được chia làm hai phần: phần Xướng và phần Đáp, được đọc theo lối: người chủ sự đọc phần Xướng, sau đó cả cộng đoàn thưa phần Đáp; hoặc hai phần này chia ra hai bè nam – nữ.

5. Ca dao, tục ngữ về đời sống xã hội, cách đối nhân xử thế

Thứ nhất hết linh hồn hết ý

Cùng hết lòng yêu quý Chúa Trời

Thứ nhì cư xử trên đời

Thương yêu giúp đỡ những người cận lân

Nội dung ca dao: Nhắc người giáo dân sống kính Chúa, yêu người như lời Chúa Giêsu nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều quy về hai giới răn ấy.” (Mt 22,37-40)[14].

Anh em cùng một đức tin

Hãy vì danh Chúa dằn mình nhịn nhau

Làm gì đừng để Chúa đau

Nữa mai họp mặt, nói sao với Ngài

Nội dung ca dao: Nhắc nhở các giáo hữu là người đồng đạo, hãy biết nhường nhịn nhau để xây dựng đời sống đoàn kết.

Người dại làm lại lỗi xưa

Như chó liếm lại chỗ vừa mửa ra

Nội dung ca dao: Ngựa quen đường cũ, người xấu thì khó bỏ đường tà, dễ dàng quay lại.

Câu ca dao lấy ý từ sách Châm ngôn trong phần Kinh Thánh Cựu Ước: “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó.” (Cn 26,11)[15].

Lạc đà qua dễ lỗ kim

Hơn nhà trọc phú đi tìm nước Cha

Nội dung ca dao: Của cải vật chất, nếu không biết chia sẻ sẽ là một rào cản cho đời sống tâm linh.

Câu ca dao này xuất phát từ chương 19 sách Tin Mừng Mátthêu: Có chàng thanh niên nhà giàu đến tìm Đức Giêsu hỏi về lẽ sống khôn ngoan để đạt được Nước Trời. Sau khi Chúa Giêsu hỏi và biết anh giữ đời sống luân lí chu toàn thì Ngài yêu cầu anh: “Anh hãy về bán hết tài sản chia cho người nghèo và theo Ta”. Tức thì anh buồn rầu bỏ đi. Tác giả Mát-thêu chú giải lí do anh bỏ đi vì anh có nhiều của cải nên anh tiếc không bán đi chia cho người nghèo. Sau đó, Chúa Giêsu buồn rầu quay lại nói với các tông đồ: “Người giàu vào nước Thiên Chúa khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (bởi vì họ chọn của cải hơn là chọn Thiên Chúa và người nghèo).

Mau nghe chậm nói ai ơi

Lại thêm chậm giận, Chúa Trời mới vui.

Nội dung ca dao: Nhắc nhở đức từ tốn, khiêm nhường, hiền lành.

Cuộc đời hoa cỏ không dài

Hôm nay tươi tắn, ngày mai vô lò

Còn có áo đẹp Chúa lo

Con người lọ phải sầu lo hình hài.

Nội dung ca dao: Nhắc nhở lòng an nhiên tự tại, đừng quá lo lắng về hình hài bên ngoài, vì như hoa cỏ ngắn ngủi nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn cho nó tươi đẹp.

Thức khuya dậy sớm dãi dầu

Ăn bánh lao khổ cơ cầu lắm khi

Chúa ban dầu có ở nghì

Ngủ thì yên giấc, ăn gì cũng ngon.

Nội dung ca dao: Gần giống với nội dung các câu ca dao trên, nói về lòng tin cậy phó thác vào ơn Chúa quan phòng.

Chúa Trời đã có điều răn

Làm con hiếu kính song thân trọn tình

Suốt đời được hưởng phước lành

Đất đai, cơ nghiệp, tiền trình không lo.

Nội dung ca dao: Dạy về lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ người trên, đây không chỉ là điều răn buộc nhưng còn là công việc mang lại nhiều ơn phước.

Nước mà chia rẽ sao yên

Nhà mà chia rẽ sẽ nghiêng ngửa nhà.

Nội dung ca dao: Câu ca dao lấy ý từ lời của Chúa Giêsu trong sách Phúc âm theo thánh Marcô: “Nước nào chia bè chống lại nhau, thì không thể vững được. và nhà nào chia bè chống lại nhau, thì nhà ấy khôgn thể vững được.” (Mc 3, 24-25)[16].

Giải thích một số từ ngữ Công giáo:

Điều răn: Khoản, luật của Thiên Chúa buộc tín hữu phải thi hành.

Đức tin (信 徳, Fides, Faith, Foi): Đức: ơn; Tin: đón nhận, nghe theo. Đức tin: ơn đón nhận, vâng theo.

Theo giáo lý: Đức tin là nhân đức siêu nhân Đức Chúa Trời ban cho ta để ta tin kính Đức Chúa Trời và tin những điều Hội Thánh dạy.

Linh hồn (靈 魂, Anima, Soul, Âme): Linh: phần thiêng liêng; Hồn: sự sống. Linh hồn: sự sống thiêng liêng của con người.

Linh hồn con người được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp (x. St 2,7) chứ không do cha mẹ sinh ra. Khi còn sống tại thế, linh hồn và thân xác kết hợp mật thiết với nhau như một ngôi vị hay chủ thể duy nhất. Khi chết linh hồn sẽ tách rời thể xác, nhưng sẽ tái hợp với nhau trong ngày tận thế theo một dạng thức mới như Đức Giêsu phục sinh (3: số 365, 366).

Nước Cha hay Nước Thiên Chúa (天 主國, Regnum Dei, Kingdom of God, Royaume de Dieu): 1. Tình trạng đời sống của các tín hữu tại trần gian nhưng trong ân sủng của Thiên Chúa: mến Chúa yêu người cách trọn vẹn. 2. Nước thiên đàng ở đời sau.

Chúa Trời: x. Đức Chúa Trời (đã giải thích ở trên).

Ngoài ra còn có các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao về đặc điểm vùng miền, như: Cha Phú Nhai, khoai chợ Chùa (Phú Nhai là tên một xứ đạo lớn Xuân Trường, Nam Định quê hương của nhiều vị giám mục và linh mục đang phục vụ trong Giáo Hội tại Việt Nam; chợ Chùa thuộc huyện Nam Trực, Nam Định là nơi có khoai ngon nổi tiếng).

Hay nói về tâm trạng riêng:

Em như một đóa hoa đào

Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu

Trăm nghìn lạy Chúa Giêsu

Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em.

Hầu hết các cha mẹ người Công giáo đạo đức đều ước mong con cái của mình đi tu tạo phước. Tuy nhiên, không phải ai cũng có “ơn gọi” đi tu nên mới có tiếng than vãn đầy tâm trạng nhưng cũng có chút hài hước của một cô gái bị “ép” đi tu như trên.

Các câu ca dao trên cũng chứa các từ ngữ Công giáo như: “Cha” (từ gọi linh mục), “nhà tu” (nhà dòng), “Chúa Giêsu”.

6. Kết luận

Đối với người Công giáo, Đạo không phải một cái gì cao siêu vượt lên sinh hoạt đời thường, nhưng đi vào trong sinh hoạt đời thường, làm cho đời thường bớt dần tính “thường” hơn. Chính vì thế, cho dù khi du nhập, Việt Nam đã thấm nhiễm các yếu tố Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, thì Công giáo vẫn ghi lại những dấu ấn riêng của mình góp phần làm cho văn hóa nước ta thêm phong phú. Các từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ ca dao có mặt trong nhiều lãnh vực đời sống mà bài báo nghiên cứu là một phần khẳng định cho nhận định đó.

Hướng nghiên cứu này có thể được mở rộng ra nhiều lãnh vực khác của ngôn ngữ Việt Nam qua các tác phẩm văn học viết như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca. Tác giả mong rằng có dịp tiếp tục đề tài để trình bày về sự tiếp ứng văn hóa Việt và Công giáo biểu thị qua ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Đình Bảng (2010), Văn học Công giáo Việt Nam - những chặng đường, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Thúy Giang (2013), Mối quan hệ giữa từ ngữ nhà Phật và từ ngữ đời sống trong tiếng Việt (trường hợp các từ Tâm, Nhân, Duyên), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hải Phòng.

3. Hội đồng giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo, Nxb. Tôn giáo.

4. Vũ Văn Khương (2001), “Mấy nhận xét khi đọc cuốn Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4.2001.

5. Vũ Văn Khương (2005), “Thử tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa của mấy danh từ và tập tục trong mùa Vọng”, Tập san số 1 - K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.

6. Vũ Văn Khương (2006), “Giá trị của phụng vụ trong đời sống tín hữu”, Tập san Hiệp thông Hải Phòng, số 7 – 2006.

7. Vũ Văn Khương (2006), “Mùa Chay, thử tìm hiểu gốc và nghĩa của mấy từ ngữ liên quan”, Tập san số 2 - khóa K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.

8. Vũ Văn Khương - Nguyễn Công Đức (2015), “Ngôn ngữ và tôn giáo – các định hướng nghiên cứu”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 5, Hà Nội, tr.84 – 93

9. Vũ Văn Khương (2017), Đặc điểm vay mượn của lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam (qua khảo sát các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam)”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 9. Hà Nội, tr.36 – 41

10. Vũ Văn Khương (2018), Từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ, ca dao tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, Hà Nội, tr.41 – 46

11. Vũ Văn Khương (2018), Sự chuyển hóa của lớp từ ngữ Công giáo vào tiếng Việt toàn dân, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, Hà Nội, tr.52 – 60

12. Vũ Văn Khương (2020), Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội

13. Vũ Văn Khương (2021), Từ ngữ Công giáo gốc Ấn Âu có cấu tạo Hán Việt, Hội thảo Hán Nôm toàn quốc năm 2021, Viện Hán Nôm.

14. Lê Thị Lâm (2019), Đặc điểm từ ngữ nhà Phật trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, Học viện KHXH, Hà Nội.

15. Đinh Kiều Nga, Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, (đăng trên: http://btgcp.gov.vn)

16. Thanh Nghị (1951), Việt Nam Tân từ điển, NXB. Thời Thế, Sài Gòn

17. Chương Thâu, Vài ý kiến về Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, Tạp chí Sông Hương, số 142, tháng 12 - 2000.

18. Nguyễn Huy Thông , Những đóng góp của đạo Công giáo đối với văn hóa Việt, đăng trên: http://www.conggiaovietnam.net

19. Nguyễn Thế Thuấn (1976), Kinh Thánh Cựu Tân Ước, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, HCM.

20. Stêphanô Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu Từ vựng Công giáo, Sách lưu hành nội bộ

21. Hà Huy Tú (2002), Tìm Hiểu nền văn hóa Thiên Chúa giáo, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

[1] Thứ tự trong ngoặc đơn: tiếng Hán, La Tinh, Anh, Pháp.


[2] Sách tiên tri Isaia chương 65, câu 16


[3] Sách tiên tri Giêrêmia chương 28, câu 6


[4] Sách tiên tri Giêrêmia chương 11, câu 5


[5] Sách Dân số, chương 5, câu 22


[6] Sách Thánh vịnh, chương 41, câu 14


[7] Tin Mừng theo thánh Mátthêu, chương 6, câu 2


[8] Sách Khôn ngoan, chương 3, câu 14


[9] Tin Mừng theo thánh Máccô, chương 12, câu 29


[10] Tin Mừng theo thánh Mátthêu, chương 28, câu 19


[11] Sách Đệ nhị luật, chương 32, câu 6


[12] Sách tiên tri Samuen quyển thứ hai, chương 7, câu 14


[13] Sách Thánh vịnh, chương 68, câu 6


[14] Tin Mừng theo thánh Mátthêu, chương 22, từ câu 37 đến câu 40


[15] Sách Châm ngôn, chương 26, câu 11


[16] Tin Mừng theo thánh Mác cô, chương 3, từ câu 24 đến câu 25