Cáo phó: Thi sĩ Bùi Nghiệp-Văn tế Mỗ- viết về chính mình

admin

Thưa quý độc giả VTCG,

Chúng tôi vừa nhận được tin buồn: thi sĩ Bùi Nghiệp (Bóng Tà Dương), nổi tiếng với những bài văn tế các thánh Tử đạo, vừa được Chúa gọi về Nhà Cha ngày 22.12.2020. Xin gửi tới quý độc giả bài văn tế đặc biệt mà tác giả đã viết cho chính mình để cùng chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc đời và thêm lời cầu nguyện cho linh hồn Phêrô.

Xin thành kính phân ưu cùng quả phụ của thi sĩ và toàn thể tang gia.

BBT



VĂN TẾ MỖ.

(BÙI NGHIỆP)

Bào ảnh mấy vầng!
Phù vân một kiếp!
Đôi ngả âm dương,
Hai vừng nhật nguyệt.
Thuyền tồn vong cập bãi tha ma,
Xe sinh tử dừng bờ mộ huyệt.
Tang điền nhất đán viễn phương,
Thương hải ba sinh hồ điệp.

Mỗ đây:
Đất Nam Định, phủ Trực Ninh cắt rốn chào đời,
Tiết thu phân, năm tân mão chôn rau hòa nhịp.
Nối bước tổ tằng,đâu giầu ba họ, nương sắn ruộng dâu,
Theo chân bác mẹ, nào khó ba đời giậu tơi vồng diếp.
Chín họ chân lấm tay bùn,
Ba đời tay làm hàm xiết.
Bớ giống trâm anh,
Hỡi dòng thế phiệt.

Họ hàng bao người danh giá: chánh lãnh, phủ tri?
Dòng tộc mấy đấng chức phần: ông đồ, thầy điệc!
Buổi nhiễu nhương rời Bắc Bộ cha cõng tha phương.
Thời tao lọan đến Nam Kỳ mẹ bồng lập nghiệp.
Gởi lòng son : Vương Nhã Khánh Nho.
Trao tâm huyết: Đăng Khoa Chi Nghiệp.
Ước nên giống má rạng rỡ tông môn,
Mong đáp cao dầy nở mày nở mặt.

Ngờ đâu:
Hai năm nòng nọc đứt đuôi.
Sáu tháng dưa đen lộn kiếp.
Trâu cày quá buổi, hồng hộc hoài công.
Chó chạy quá cơm, long nhong mất nhịp.
Sách đèn đánh trống bỏ dùi,
Công danh thử kêu bắn tịt.

Cũng một thời :
Chốn thao trường lấp lánh “an-pha”
Ngoài chiến địa ngời ngời “mai biếc”
Nửa bồ binh pháp, buổi nhiễu nhương huynh đệ tương tàn,
Vơi túi kinh luân, thời tao lọan nồi da nấu thịt.
Ba năm da ngựa bọc thây!
Ngàn bữa nằm gai nếm mật!

Rồi đến lúc:
Vào trường cải tạo, cơ trời bí lối bàn cờ ...
Ra chốn lao lung, vận nước hạ hồi gánh xiếc!
Góp gom tài sản, vẹt lối sậy hoang,
Thu vén tư trang, cỡi cồn sóng biếc.
Bàng hoàng dây thừng trói khủyu, định mệnh oái oăm,
Bỡ ngỡ họng súng kê đầu , số phần chết tiệt.

Bại sản tan gia!
Cùng đường khánh kiệt!!
Phận ngựa trâu lại phận ngựa trâu,
Thân khốn kiếp hoàn thân khốn kiếp.

Đã những khi:
Này nơi thị tứ xích lô xe kéo: quại dạ dầy ,
Nọ chốn sơn lâm thồ củi đốt than: quằn sốt rét.
Đào vàng đãi đá rúc tận non xanh,
Ngậm ngải tìm trầm chui luồn rừng biếc.
Vai vác chai sần cuốc xẻng - xà beng,
Tay bươi rời rã “xẹc lai - xà gạc”.
Manh áo vợ - nhuộm lẫn mồ hôi,
Bát cơm con - hòa chung nước mắt.
Muốn quăng thân xuống giếng hòng kết liễu đời,
Toan đập sọ vào tường cho rồi tai kiếp.

Nhưng có lúc:
Ngày tỏ nhớ trang cổ sử : Hàn Tín,Tử Nha,
Đêm trăng lần giở Thánh kinh: ông Rô ông Gióp.
Ngửa mặt tâm sự cao xanh?
Cúi đầu tỉ tê đất thấp!
Ngọn bút cùn còn vung vẩy bài thơ,
Tàu mực cạn cố mài ra sắc huyết,

Rồi đến ngày:
Then tạo hóa chuyển xã tắc qua hồi,
Máy càn khôn quay sơn hà đến hiệp.
Rời núi rừng xôi hỏng bỏng không,
Về thị tứ xang bang xất bất.
Nhà đèn nhà điện - mỏ lết kềm răng .
Phu gạch phó nề - cái bay cái thước.
Giăng giăng điện đóm , thiên hạ sáng lòa,
Mò mẫm đèn dầu, nhà ta tối mịt.

Thế nên:
Thương con vợ khéo - Kiếp nữ nhi chẳng đỗ bến trong,
Chán thằng chồng đần - Thân bồ liễu nhè neo vũng đục.
Hoa nhài cắm bãi cứt trâu?
Mâm son bày chiềng đũa mốc?
Giận cá băm thớt chửi lọan cào cào,
Quăng chó mắng mèo hung hăng bọ xít.
Ngoài ngõ lời ong tiếng ve!
Trong nhà ra chì vào chiết!!

Thôi thôi:
Ngậm miệng giả ngọng giả câm,
Bịt tai hòng ngây hòng điếc.
Gậy tầm vông hèo đứa viển vông,
Dây nghiệt ngã trói thằng oan nghiệt.
Vay làn hương bằng hữu thơm râu,
Mượn danh giá bạn bè ngọt mép.
Nấp vây rồng vỗ ngực xưng tên,
Dựa râu cọp ra oai ra phết.
Sắp đến ngày sinh tử cận kề,
Gần đến lúc âm dương cách biệt.
Thân ta ta hay.
Đời mỗ mỗ biết.
Tợp ngụm hèm xấp giọng , cung văn đây tớ tự điếu mình,
Nốc bát rượu lấy hơi, lời tế mỗ chiềng ra cho hết.
Bông rua!
Tạm biệt!!

Bùi Nghiệp (BÓNG TÀ DƯƠNG)