Thơ của thầy cả Philipphê Bỉnh - Tác giả: Bùi Công Thuấn

Lan Mary
Trong bài "Thầy cả Philipphe Bỉnh-tư liệu"[1], tôi đã giới thiệu tổng quát những nguồn tư liệu viết về Lm. Philipphê Bỉnh của GS-Lm Thanh Lãng, của PTS Võ Xuân Quế và của George E. Dutton trong cuốn A Vietnamese Mose... NGUỒN:

Trong bài "Thầy cả Philipphe Bỉnh-tư liệu"[1], tôi đã giới thiệu tổng quát những nguồn tư liệu viết về Lm. Philipphê Bỉnh của GS-Lm Thanh Lãng, của PTS Võ Xuân Quế và của George E. Dutton trong cuốn A Vietnamese Mose...

Ở bài viết nhỏ này, tôi giới thiệu sơ lược thơ của Lm. Philipphê Bỉnh qua cái nhìn của George E. Dutton và qua những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo do Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên chuyển và chú thích, để từ đó xác định vị trí của Bỉnh đối với dòng văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ ngay từ khởi nguồn.

THẦY CẢ PHILIPPHE BỈNH VÀ SỨ VỤ MOSE


Dựa vào ghi chép trong các "Sổ sách" (Notes) và các tác phẩm khác (Bỉnh's story) của Thầy cả Philipphê Bỉnh, kết hợp với thư từ Bỉnh gửi và nhận, George E.Dutton [2] đã dựng lại hành trình đi Lisbon, xem xét những nỗ lực thực hiện sứ vụ Mose và miêu tả lại cuộc sống của Bỉnh ở Lisbon hơn 3 thập kỷ (1796-1833).

George E.Dutton ghi nhận:

"Tôi là thầy cả Philiphê Bỉnh, người tỉnh Hải Dương, tổng Hạ Hồng, huyện Vĩnh Lại, làng Ngải Am, thôn Địa Linh. Tôi sinh năm 1759, cùng năm vua Jose của nước Bồ Đào Nha tiêu diệt Dòng Đức Chúa Giêsu trong lãnh địa của mình. Khi tôi mười bảy tuổi vào năm 1775 và vào nhà thầy tôi, Dòng đã bị phá hủy hai năm trước đó ở Rôma, vì Đức Giáo Hoàng Clêmentê XIV đã giải tán Dòng Đức Chúa Giêsu vào ngày 22 tháng 7 năm 1775. năm 1773. Tuy nhiên, trước khi giải tán dòng, và đầu năm đó, tám thành viên của dòng đã đến An Nam: Thầy Titô và Thầy Bảo Lộc [Paul] đã ra Quảng [Nam], còn lại các nhà truyền giáo, Sư Ni, Thiện, Phan, Luis, và Cần đã đến Đàng Ngoài ["Tonkin"]. Vì vậy, vào năm đó [1775], tôi đã đi với Thầy Luis và xuất gia".

"Cha Luis," là một tu sĩ dòng Tên người Ý, tên là Alexandre-Pompée Castiglioni, Dòng Tên được ĐGH Phaolô III thiết lập Ngày 27.9.1540. Lm I-nhã (Inigo Lopéz de Loyola) làm Bề trên Tổng quyền tiên khởi. Các thừa sai Dòng Tên đến Đàng Trong năm 1615 và Đàng Ngoài năm 1626 [3]. Alexandre de Rhodes, một tu sĩ dòng Tên, cập bến Hội An tháng 12 năm 1624.

Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài trao cho Hội Thừa sai Paris (MEP) trông coi, Đông Đàng Ngoài (ban đầu do MEP phụ trách) sau trao cho dòng Đa Minh. Điều này gây ra cuộc tranh giành quyền lực với dòng Tên kéo dài. Đến năm 1682, Giáo hoàng Innocent XI triệu hồi tất cả các tu sĩ dòng Tên ở Đàng Ngoài về trình diện tại Roma, và ra lệnh cấm gửi thêm bất kỳ nhà truyền giáo nào đến khu vực này. Ở Bồ Đào Nha, đến năm 1759, Pombal đã đóng cửa dòng Tên. Cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado của Lm Bỉnh ở Đàng Ngoài đã từ chối lời đề nghị từ MEP và các tu sĩ Đa Minh. Họ chờ đợi sự trở lại của các giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha.

Lm Philipphê Bỉnh và các bạn được cử đi Lisbon để cầu xin đức vua Bồ Đào Nha bổ nhiệm một Giám mục dòng Tên cho cộng đồng Padroado. Bỉnh đến Macao ngày 27.10.1794 để tìm đường sang Châu Âu. Nhưng ở đây, bị Giám mục Marcelino ngăn cản, Bỉnh phải trở về Đàng Ngoài (ngày 20. 5.1795). Sau khi quyên góp chuẩn bị cho chuyến đi lần 2, ngày 23.1.1796, Bỉnh đến Quảng Đông và ba ngày sau đến Macao. Ở đây, Bỉnh cố tránh sự ngăn cản của các Giám mục tông tòa. Phái đoàn của Bỉnh đã lên con tàu St. Anne của Anh, ra khơi vào khoảng trưa ngày 15. 2.1796. Sau một hành trình dài và gian nan, Bỉnh đến Lisbon vào mùa hè năm 1796. Bỉnh được nhiếp chính hoàng tử Dom João đón tiếp, sắp xếp chỗ ở, và hỗ trợ tài chính trong thời gian phái đoàn của Bỉnh ở Lisbon.

Thật không may cho Lm. Philipphê Bỉnh. Ông đến Lisbon lúc hoàng gia Bồ Đào Nha có nhiều xáo trộn, khiến cho những kiến nghị của ông không được giải quyết. Nữ hoàng Maria I lên ngôi năm 1777 sau cái chết của cha mình là José I. Rồi tai họa ập đến, con trai bà là thái tử José chết vì đậu mùa. Ngay sau đó, con gái bà chết khi sinh nở, cháu trai mới sinh của bà cũng chết, sau đó là con rể của bà...Bà trở nên điên loạn, các bác sĩ không thể cứu chữa. Bà qua đời năm 1816.

Ở Lisbon, Lm. Philipphê Bỉnh đã gửi cho hoàng tử Dom João 15 thỉnh cầu. Bỉnh cũng được hoàng tử tiếp kiến nhiều lần. Ngày 22.10.1801, Dom João chính thức bổ nhiệm một giám mục Padroado đến Bắc Kỳ. Đó là Giám mục Manuel Galdino 32 tuổi, dòng Phanxicô. Nhưng Vatican quyết tâm ngăn cản. Khâm sứ Pacca đã làm áp lực đưa Galdino đến Macao, thay vì đến Bắc Kỳ theo thỉnh nguyện của Lm. Philipphê Bỉnh. Sứ vụ thất bại, Lm. Philipphê Bỉnh lại nhờ người đệ trình thỉnh cầu trực tiếp Giáo hoàng Pius VII, nhưng thỉnh cầu của ông bị từ chối.

Mùa thu 1807, Bồ đào Nha trở thành mục tiêu của lực lượng Pháp-Tây Ban Nha của Napoléon. Hoàng gia đầu hàng và đi lánh nạn ở Brazil. Họ ở đó 15 năm. Lm. Philipphê Bỉnh xin đi theo nhưng bị từ chối. Từ nay nguồn tài trợ từ hoàng gia bị cắt đứt, Lm. Philipphê Bỉnh sống ở Lisbon như một người lưu vong, ông tiếp tục sứ vụ trong vô vọng.

Sau khi hoàng gia Bồ Đào Nha lưu vong ở Brazil, Lm. Philipphê Bỉnh và các bạn ông phải thay đổi chỗ ở. Rời tu viện Necessidades ngày 19.6.1807, Bỉnh đến Casa do Espirito Santo và sinh hoạt như một linh mục Công giáo địa phương. Ở đây, linh mục lưu động được thuê cử hành thánh lễ, giải tội, rửa tội và các bí tích khác tại các nhà thờ khắp thành phố. Nguồn thu nhập chính của các Linh mục, kể cả Lm. Philipphê Bỉnh, là ở việc được thuê cử hành các mục vu tôn giáo. Giáo dân quyên góp trả công cho họ.

Cuộc cách mạng năm 1820 ở Bồ Đào Nha làm thay đổi cục diện và làm suy yếu quyền lực hoàng gia. Ngày 3.7.1821, vua João VI được quân cách mạng yêu cầu trở về Bồ Đào Nha. Thời gian sau đó, hoàng tộc trở nên lộn xộn, họ không còn quan tâm đến thỉnh nguyện của Lm. Philipphê Bỉnh.

Những người bạn của Bỉnh lần lượt qua đời. Mùa hè 1824 là anh Trung, trước đó là anh Ngần. Lm. Philipphê Bỉnh suy gẫm về cái chết của mình. Sứ vụ Mose của ông hoàn toàn thất bại. Cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado "ly khai" ở Đàng Ngoài đã kết thúc.

Lm Philiphê Bỉnh để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ bằng chữ Quốc ngữ.

Trong cuốn sách của mình, George E. Dutton đánh giá cao sự nghiệp văn chương (writings) của Bỉnh: Ông viết: "Thanh Lãng, một trong những người viết tiểu sử trước đó của ông, lưu ý, Bỉnh là một học giả trên nhiều lĩnh vực: sử học, ngôn ngữ học, thần học, học giả văn học, và chúng ta cũng có thể thêm vào đó, nhà dân tộc học." [4]

George E. Dutton cho rằng Lm. Philipphê Bỉnh là nhà văn Việt Nam đầu tiên viết nhiều nhất bằng chữ quốc ngữ [5], vừa là người sáng tạo trong việc sản xuất sách bằng tiếng Việt Công giáo, vừa là người tiên phong trong cách tổ chức và trình bày chúng. Bỉnh kết hợp và đan xen các yếu tố lịch sử Việt Nam, các sự kiện trong Kinh thánh và các mốc truyền giáo của Công giáo trong một khung thời gian chung. Bỉnh mở rộng hình thức thể loại "truyện" đến tầm cỡ gần như sử thi. Truyện An Nam Đàng Ngoài và Truyện An Nam Đàng Trong là đóng góp quan trọng nhất của Bỉnh đối với truyền thống truyện kể lịch sử Việt Nam: Bỉnh lấy bối cảnh ở quê hương ông và viết về người dân Việt Nam. Về phương diện này, Bỉnh đã trở về cội nguồn Việt của thể loại "truyện"...Thơ của Bỉnh nằm trong truyền thống "thơ đi sứ" của văn chương Việt nhưng với những nội dung ghi chép hoàn toàn khác...

Qua những nghiên cứu của George E.Dutton, có thể nhận ra, Felippe do Rosario Bỉnh (tên Công giáo của Bỉnh) là nhà văn Công giáo lớn của văn học Công giáo Việt Nam mà phần lớn tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ của ông, cho đến nay, chưa được giới nghiên cứu quan tâm đầy đủ.

GEORGE D. DUTTUN ĐỌC THƠ CỦA PHILIPPHE BỈNH


Đó là những bài thơ trong cuốn Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo [6]. Những bài thơ này Bỉnh viết ngay khi ông vừa trải qua những biến cố trong hành trình thực hiện sứ vụ. George E.Dutton ghi nhận những biến cố ấy cùng những bài thơ Bỉnh làm để thể hiện tâm tình, nghĩ suy của mình:

Đây là những bài thơ George E.Dutton giới thiệu: [7]

Ở Macao, Bỉnh bị Giám mục Marcelino cản trở không thể đi GOA, sau đó phải về Bắc kỳ, Bỉnh làm thơ:

Làm ngăn trở chẳng cho Thầy cả trẩy thơ [8]

Ngây hèn là phận dám nài sao
Xót đấng đà mang chức thánh cao
Đuổi sói chữa chiên cơn lẫn lộn
Xua ong dẹp kiến lúc luông lao
Tuy ngăn Hậu chúa đừng vênh lại
Nhưng sẵn Tào công tiến tuốt vào
Cờ sứ xăm xăm còn phất tới
Giúp thiêng giờ khắc chẳng là bao

(Giáp Dần niên Ngày mồng 4 tháng chạp năm là 1794)

Dutton dịch

Obstacles Preventing the Priests from Traveling [9]

We are stupefied at being fated to weakness, how dare they block us?
Grieved at our departure being prevented by one in a position of high saintliness.
The chasing wolf herds the sheep [through] the confusing storm;
Chasing the bees, and crushing the ants, causing both so much hardship.
I have been blocked by the generous Lord, so that I do not become too proud
All my labors have been for naught as they've all been turned back.
But our envoy's banner hurries forward and still waves ever onward Aiding the sacred hours and minutes whose duration we cannot know.

Đến Macao lần thứ hai, sau nhiều thất vọng, nhóm của Lm. Philipphê Bỉnh cũng tìm
con tàu Anh tên là St. Anne để đi châu Âu. Bỉnh coi đây là phép lạ của thánh Anne (mẹ của Đức Trinh Nữ Maria) đã cứu giúp Bỉnh. Con tàu ra khơi trưa ngày 15. 2. 1796. Ông làm thơ:

Mừng được trẩy sang bên tây thơ

Năm vừa sáu lẻ tháng đầu xuân
Thánh ý xui nên vẹn mọi phần
Bể bắc tuy rằng nghìn dặm dán
Trời tây nhường đã một bên gần
Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân

(Bính Thìn niên, Mồng 6 tháng giêng năm 1796)

Bản dịch của Dutton:

Rejoicing at Having Begun the Journey to the West [10]

The year has just commenced, the sixth day of the month that begins the spring,
The will of the saints has brought about a completed wholeness.
We are in the northern seas, and even though we still have thousands of miles to cross,
The western sky seem already a bit nearer.
Ahead lies the virtue of the Lord of Heaven above,
Behind lies the support of a myriad people below.
The times of hardship will become a period of joy
For truly his hand distributes each wisely and equitably.76

Trong cuộc hành trình, con tàu không gặp cướp biển nhưng gặp cơn bão lớn 3 ngày đêm. Khi bão qua đi, Bỉnh làm thơ:

Gặp trận bão ở giữa biển khơi thơ

Chưng thủa mênh mông giữa biển xa
Thiên thần thổi một trận phong ba
Cơn mưa sán đến như non nước
Ngọn sóng giồi lên sánh nóc nhà
Người giữ gìn buồm người bẻ lái
Kẻ ăn năn tội kẻ kêu ca
Ba ngày lại tạnh, ơn lành giúp
Sáng trước bên đông lại tró ra
Hoà
Đang lúc khơi chừng vượt bể xa
Trời tây thoắt biến nổi phong ba
Gian nan ngọn sóng lo vì nước
Xô xát dòng châu lệ sự nhà
Khẩn nguyện cầu bầu Phương tế các
Cậy trông lời chép thánh Luca
Mây mù gió quét lâng lâng sạch
Vầng nhật phương đông lại mọc ra

[Bính thìn niên Ngày 12. 3.1796]

Bản dịch của Dutton:

A Poem on Encountering a Storm on the Open Seas [11]

As evidence of the vast immensity in the distances of the ocean
The angels of heaven blew up a powerful storm.
The squalls of rain rose up like mountains of water,
The peaks of the waves rose as high as the rooftops of houses.
As for those holding the sails, and those holding the rudder,
They regretted their crimes, and called out with laments.
It was three days before the storm ceased and we were fortunate to be given help
As the brightness before us to the east emerged once again.

Tan bão, thuyền lệch hướng, lại lo cướp biển. Nhóm của Bỉnh chủ yếu giúp kéo buồm, hạ buồm nhưng cũng hỗ trợ đốt đèn cho những chuyến đi biển ban đêm, xem la bàn và canh đất. Các công việc khác bao gồm gỡ những sợi dây gai dầu lớn của con tàu và múc nước biển mỗi sáng để làm sạch sàn tàu. Để giết thời gian, Bỉnh nói chuyện với bảy hoặc tám thủy thủ người Bồ Đào Nha trên tàu. Bỉnh đã làm thơ về việc giúp các công việc trên tàu:

Giúp việc kéo dây đi tầu thơ

Từ khi gặp được chiếc tầu thương
Quyết chí ra tay sửa mối giềng
Gá máy nương lèo da nhuốm tuyết
Lần dây gỡ rối tóc đeo sương
Một phen đập đá qua muôn nước
Mấy tháng pha phôi khắp bốn phương
Phần mọn vâng đà cam thửa nguyện
Cám ơn Thiên Chúa bội lòng thương

Bản dịch của Dutton:

Helping to Hoist the Ropes on the Boat [12]

From the time that we were able to find this merchant ship
We resolved to help repair the tangled ropes.
We assembled the necessary sail ropes, though covered with snow
And each time we unraveled them, our heads would be covered with frost.
Only once did we stand on land as we crossed the endless waters.
For many months we traveled everywhere in the four directions.
We insignificant ones obeyed the orders we had committed to accepting.
Thank you, Lord, for your many mercies.

Con tàu của Bỉnh đến đảo St. Helena, nó đã đi hơn 7.500 dặm trong 40 ngày, St. Helena là một trong những nơi xa xôi nhất trên trái đất, rộng 47 dặm vuông có những vách đá dựng đứng và núi cao hơn 2.600 feet so với mặt nước biển. Bỉnh ở lại đây hơn 3 tuần.

Tới thành bà thánh Helena thơ

Vội vội thành đâu giữa biển xa
Chẳng ngờ núi thánh Hélena
Non xanh giữa lối tầu đi lại
Nước ngọt trong thành suối chảy ra
Rổng rểnh cũng nhiều danh giá cả
Xăm pha có mọi giống người ta
Nhờ ơn lộc nước âu thong thả
Sơn thuỷ hữu dư chẳng lọ là
[Bính thìn niên Ngày mồng 2. 4.1796]

Bản dịch của Dutton

A Poem on Reaching the City of St. Helena [13]

Suddenly there appeared from nowhere in the distant sea
The unexpected sight of the mountains of St. Helena.
These green mountains lay in the path of the coming and going ships;
fresh water ran forth from springs in the city.
Moving freely, we saw many people of note,
A mixture of every race of our people.
Thanks to kindness and fortune, water flowed freely
The mountains offered water in abundance, so there was no need for concern.86

Đến Lisbon, Bỉnh viết bài thơ đầu tiên trên đất Châu Âu. (Tôi không tìm thấy nguyên tác tiếng Việt bài thơ của Bỉnh trong bộ sưu tập của Roland Jacques OMI)

Poem on Entering the Capital of the Country of Portugal [14]

Now at last I have entered the Western world.
As for the road into the future, no one knows how long it will be.
We covered ten thousand miles, pushed by the currents of the four winds.
We have suffered one tragedy, but already completed three stars.
The eastern sky continues to the court of the silver clouds;
From the northern seas we have already crossed over the layers of waves.
Now I have slaked a portion of that thirst,
For the great drought we've experienced has been followed by a downpour.

Dutton bình bài thơ:

Bài thơ phản ánh những gian khổ của cuộc hành trình và những bất trắc lớn mà nó kéo theo. Bỉnh nói về biển và gió, những dòng sông và hòn đảo mà ông và những người bạn đồng hành đã đi ngang qua, ở lại hoặc đã qua. Bỉnh kết thúc câu thơ bằng phép ẩn dụ về thức ăn, nhu cầu về nước và cơn khát tinh thần mà họ đã phải chịu đựng trong thời kỳ hạn hán khô khốc. Theo quan điểm của Bỉnh, việc họ đến Bồ Đào Nha không chỉ là cơn mưa mùa xuân mà là một trận đại hồng thủy tràn ngập. Nó thể hiện cho sự bối rối giàu có khi cuối cùng [họ] đặt chân lên đất liền một lần nữa, một vùng đất có tiềm năng hồi sinh không chỉ cho nhóm của Bỉnh mà còn cho cộng đồng mà Bỉnh đại diện. Bài thơ vừa là sự phản ánh những khó khăn mà nhóm của Bỉnh và cộng đồng lớn hơn của họ đã phải chịu đựng, vừa là sự bày tỏ hy vọng về những gì Lisbon có thể mang lại [15]

Đoàn của Bỉnh được bố trí lưu trú tại cộng đồng Oratorian. Bỉnh được đón tiếp nồng nhiệt khi họ đến khu nhà Necessidades. Bỉnh làm thơ bày tỏ lòng biết ơn giáo đoàn đã che chở đoàn của mình:

Tặng các cụ nhà dòng ông thánh Philiphê thơ

Cám ơn các cụ ở nhà này
Bởi xót con chiên lạc đến đây
Mọi lẽ bảo ban đều rạng tỏ
Hai phần cấp dưỡng được no đầy
Hằng ngày tế lễ Ba Ngôi thánh
Tuần lễ jê jun một bữa chay
Thánh sủng xin thêm cho các cụ
Ra tay cứu vớt lũ dân ngây

[Bính Thìn niên Ngày mồng 2 tháng Augustus năm 1796]

Bản dịch của Dutton:

Poem of Thanks to the Order [16]

We give thanks to the priests in this house
Because of your compassion for these lost sheep who arrived here,
Advising us in all matters with great clarity,
Nurturing us to satiation in both body and soul.
Every day there are offerings to the three saints
And for weekend fasts you provide fasting meals.
May the saints shower even more favors upon all your priests
For extending your hands to rescue this group of men. 23 (chương 4)

Trong những năm đầu ở Lisbon, nhóm của Bỉnh thường xuyên bị ốm nhẹ. Cuối năm
1799, anh Nhân bị bệnh nặng. Các linh mục Oratorian mời bác sĩ đến chăm sóc tận tình. Nhóm của Bỉnh được đi nghĩ dưỡng ở Caldas da Rainha (Suối nước nóng của Nữ hoàng), một thị trấn spa nhỏ cách Lisbon 80 km về phía bắc. Họ ở đây khoảng một tháng rưỡi và rất tốn kém, nhưng chi phí do hoàng gia bảo trợ (ngân khố Nhà nước). Bỉnh đã kỷ niệm chuyến nghỉ dưỡng này bằng một bài thơ:

Vịnh thú Caldas thơ

Thú nào bằng thú Cạ lừ đà [âm đọc của Caldas]
Đến tiết trời thu khách nhởn nhơ
Mấy dặm đàng cù người rổng rểnh
Một nguồn nước suối kẻ xông pha
Ngày ngày hợp mặt vui đầm ấm
Bữa bữa lăn tay chén hê ha
Thong thả âu đà nhờ lộc nước
Khen ơn tạo hoá cảnh này ra

[Canh thân niên Thượng tuần tháng Juliuj năm 1800]

Bản dịch của Dutton:

A Chanted Poem to the Delights of Caldas [17]

There is no delight such as that of Caldas,
Where we arrived in the fall season, as carefree guests.
After traveling many miles along a wide and bustling road,
We found the streams of fresh water that emit rising steam.
Day after day we met together in happy coziness.
In taking meals, we wrapped our hands around our bowls in a carefree manner.
Enjoying its leisure, the gull takes flight, recalling the good fortunes of the water.
Praise and thanks to heaven for creating such a place.

Ngày 22.10.1801, hoàng tử nhiếp chính Dom João chính thức bổ nhiệm Giám mục Galdino đến Bắc Kỳ, Bỉnh làm 2 bài thơ tạ ơn:

Tạ ơn Đức Vua Vutughê thơ

(/Vutughê/ là âm đọc trại của Portugal, nghĩa là Bồ Đào Nha)

Tâu Vua muôn tuổi ngự khang ninh
Trị nước đời nay được thái bình
Trước chọn Sa sê sang Việt quốc
Nay ban Chúa giáo chính đông kinh
Mến trên sáng láng ba ngôi thánh
Yêu dưới xa gần một chữ linh
Rất trọng ơn này so núi bể
Xin thêm thánh sủng họ Quân minh

[Tân Dậu niên Ngày 22 tháng October năm 1801]

Bản dịch của Dutton:

Poem of Thanks to the Virtuous King of Portugal [18]

We memorialize to the King that he might live a myriad years and preside over an era of harmony,
And might govern the country in this era through a time of great peace.
In earlier times [kings] selected priests to be sent to the country of Viet,
Now the king is sending a primary bishop to Tonkin.
There is affection above in the bright and shining ranks of the three saints,
While below there is love, both near and far, and together they are but a single soul.
We offer profound gratitude, an abundance exceeding both mountains and seas,
And pray the saints send further grace upon the family of our King.

Mừng Vít vồ chính thơ

[/Vit vồ/ là âm đọc trại của chữ Bishop, nghĩa là Giám mục]

Cai quản bây lâu tạm Vít vồ
Nay mừng có đấng chính qui mô
Mục dương chọn mặt thay Toà thánh
Chưởng giáo đa tài dự Đốc tô
Thêm rạng thủa này danh Chúa tể
Lại noi quyền trước thánh Tông đồ
Rày âu được gậy cầm tay chắc
Dẹp sói hoà xua hết kẻ thù

[Tân dậu niên Ngày 27 tháng October năm 1801]

Bản dịch của Dutton:

Poem of Welcome to an Official Bishop [19]

How long have we been overseen by temporary bishops
that now we welcome having an official one in the official mold.
The rotten poplar wood chosen to represent the Holy See,

[Has been replaced] so that our overseer is now a man of great talent, holder of a doctorate
Adding to this, our dawn, is the renown of the Ruler
Who followed the example of the earlier powers of his blessed ancestors
Invoking the Padroado
So we now naturally lean upon and hold a firm hand
That will suppress the wolf and pacify and drive away our enemies.

Ngày 7. 8.1814, Giáo hoàng Pius VII chính thức tuyên bố Đoàn của Chúa Giê-su (dòng Tên) đã được khôi phục. Bỉnh làm thơ vui mừng:

Mừng Dòng sống lại thơ


Từ được tin lành lót đến tai
Lâng lâng giũ trút nỗi quan hoài
Mừng rày đã rõ câu khôi phục
Kẻo trước còn mơ chữ thái lai
Ấy lửa giấu hình mà sáng gió
Thật cây vững gốc có bền dây
Jê su hội sĩ nay càng thịnh
Lời phán đời xưa thật chẳng sai

Bản dịch của Dutton:

Poem Giving Thanks That the Order Lives Again [20]

From the time the news reached my ears
I felt a great sense of relief, being able to shake off my feeling of sadness.
I rejoice that [the order] has now already clearly been restored
For I had earlier feared this was still but a dream of fortunate words.
These flames conceal the image of the morning wind.
Truly this is a firm cornerstone with a solid support.
Jesus's representatives now flourish more than ever.
The words spoken in past times were truly not false.


Quan sát những bài thơ trên của Bỉnh, nếu chỉ đọc bản dịch của Dutton, người đọc khó
cảm nhận được những giá trị của thơ ông. George E.Dutton đọc thơ Bỉnh theo quan điểm "Phản ánh luận" (văn học phản ánh hiện thực) để xem xét cuộc sống và việc Bỉnh thực hiện sứ vụ. Ông không quan tâm đến những giá trị khác của thơ Bỉnh. George E. Dutton tỏ ra am hiểu tiếng Việt sâu sắc khi ông liên kết được hoàn cảnh của Bỉnh để chú giải ý nghĩa bài thơ, giúp người đọc hiểu thơ Bỉnh hơn. Những bài thơ của Lm. Philipphê Bỉnh mà Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên (người chuyển và chú thích thơ) đã không làm được như Dutton.

Có thể nói, các tác giả đã đọc thơ Bỉnh mới chỉ chú ý tính chất "du ký". Họ bỏ qua tình điệu tâm hồn Bỉnh, cũng chưa quan tâm đến những đóng góp của Bỉnh đối với thơ Quốc ngữ Việt Nam đương thời.

NHỮNG GIÁ TRỊ THƠ CỦA PHILIPPHE BỈNH


Nếu đọc riêng lẻ một bài thơ của Bỉnh, tách bài thơ ấy khỏi hoàn cảnh phát sinh được
miêu tả trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo, người đọc khó cảm nhận được tình ý thơ Bỉnh, bởi theo truyền thống thi ca phương Đông, ngôn ngữ thơ Bỉnh là ngôn ngữ ẩn dụ, và tác giả phương Đông để cho người đọc tự tìm ra những ẩn ý ("ý tại ngôn ngoại").

Xin thử đọc:

Mừng được trẩy sang bên tây thơ

Năm vừa sáu lẻ tháng đầu xuân
Thánh ý xui nên vẹn mọi phần
Bể bắc tuy rằng nghìn dặm dán
Trời tây nhường đã một bên gần
Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân

(Bính Thìn niên, Mồng 6 tháng giêng năm 1796)

Lm. Philipphê Bỉnh đã không đề cập gì đến những trở ngại do các Giám mục Tông tòa
ở Macao gây ra cho ông. Bỉnh biết rõ những âm mưu, thủ đoạn chính trị của các Giám mục Marcelino, sau đó là Giám mục Manuel Galdino đối xử với ông, và đối xử với cộng đồng giáo dân Padroado "ly khai" theo ông, buộc ông phải từ bỏ sứ mệnh Mose của mình, buộc giáo dân dưới quyền của dòng Tên phải phục tùng các Giám mục Tông tòa. Tất cả những mối quan hệ trần tục ấy không làm vẩn đục hồn thơ Bỉnh. Hồn thơ ấy trọn vẹn một niềm tín thác thánh ý Thiên Chúa: "Thánh ý xui nên vẹn mọi phần", trọn vẹn các nhân đức Tin-Cậy-Mến "...đội đức trên Thiên Chúa / Sau nữa cam lòng dưới vạn dân". Và trong khổ đau, Bỉnh vẫn lạc quan: "Bĩ cực thái lai là thể ấy/ Thật tay công chính khéo quân phân".

Người đọc nhận ra sự hòa hợp tư tưởng Đông-Tây rất mới lạ trong bài thơ. Lm. Philipphê Bỉnh sử dụng thành ngữ: "Bĩ cực thái lai" thể hiện tư tưởng Việt, thể hiện lòng tin vào Trời của người Việt: "gẫm hay muôn sự tại trời" (Truyện Kiều). Thơ ông cũng mang cốt cách phóng khoáng của một đấng nam nhi, tung hoành "bể Bắc, trời Tây" (mà sau ông, Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) mới nói nhiều về "Chí nam nhi". Bỉnh đặt mình trong chiều kích rộng lớn: chiều Trời-Đất (Thiên Chúa-vạn dân); chiều Đông-Tây (bể Bắc, trời Tây); chiều tâm linh Mến Chúa-yêu người: "Trước là đội đức trên Thiên Chúa/ Sau nữa cam lòng dưới vạn dân".

George E.Dutton đã không khám phá ra những chiều kích tâm hồn này của Bỉnh, vì thế không giải thích được sự kiên trì, bền bỉ của Bỉnh trong hơn ba thập kỷ ông thực hiện sứ vụ, dù ông gặp biết bao nhiêu trở ngại.

Điều mới mẻ mà Lm. Philipphê Bỉnh đem vào thơ ca Việt đương thời là tư tưởng thần học Thiên Chúa giáo, niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng tất cả (câu 2), Đấng quan phòng mọi sự (câu 5); Đấng giàu lòng yêu thương (câu 8); và ý thức phục vụ "vạn dân" (câu 6-giới răn Mến Chúa-yêu người), trong khi tư tưởng Thiên Mệnh của Nho giáo là một ý niệm khắc nghiệt, con người phải cam chịu số phận do trời định đoạt:

"Gẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao"


(Đoạn trường tân thanh-Nguyễn Du)

Điều mà Bỉnh gọi là "Bĩ cực thái lai" không phải chỉ là một kinh nghiệm sống của phương Đông, mà là niềm tin vào ân đức của Thiên Chúa trong thần học Kitô giáo: Con đường cứu rỗi là con đường thánh giá. Có đi qua thập tự con người mới tới vinh quang Phục Sinh.

"Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân"


Đọc bài thơ này, người đọc cũng nhận ra thơ Đường luật của Bỉnh đã Việt hóa gần gũi
và hiện đại hơn cả thơ đường luật của Nguyễn Khuyến (1835-1884), là người sống sau ông. Lm. Philipphê Bỉnh dùng văn nói hàng ngày (khẩu ngữ), và giọng điệu nói bình dân như: "xui nên", "tuy rằng", "nhường đã", "trước là", "sau nữa", "là thế ấy", điều này giúp cho thơ ông mang được hơi thở giọng điệu của nhân dân.

Xin đọc một bài khác:

Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ

Dẫu dân dù nhẫn đấng làm quan
Ngày lễ ai ai bỏ việc vàn
Đền thánh đàn om cung nhạc nhã
Đàng cù sấm dậy tiếng xe loan
Người phô cẩm tú chiều thanh quí
Kẻ ướp hương hoa vẻ cát nhàn
Vào trước bàn thờ chầu Thánh Thể
Tai nghe Thầy giảng Thánh Evan
Hoà
Có đấng đồng trinh chẳng phải quan
Ông Bà đi lễ khác muôn vàn
Thương Già chống gậy theo chân khách
Xót Trẻ trèo non quặn ruột loan
Một lúc mất Con càng thảm thiết
Trăm đàng khốn Mẹ chẳng an nhàn
Ba ngày lại thấy trong Đền thánh
Bõ lúc đi tìm những khóc van.

Bạn đọc Công giáo có thể tiếp nhận ngay ý nghĩa bài thơ, mặc dù có một vài từ hơi cổ.
Điều đáng ngạc nhiên là "hiện thực" được nói đến trong thơ hoàn toàn mới lạ so với hiện thực thơ Nôm của các nhà thơ Việt đương thời.

Ở bài xướng, Lm. Philipphê Bỉnh ghi nhận việc "bổn đạo phương Tây giữ lễ". Ông bày tỏ sự ngạc nhiên lớn lao về lòng sùng đạo của giáo dân phương Tây. Dù là dân hay quan, ngày lễ họ đều bỏ việc để đến nhà thờ. Họ phô bày vẻ đẹp cẩm tú ngát hương hoa của những người thanh quý an nhàn khi đi nhà thờ. Tiếng nhạc vang hòa trong đền thánh ("Đền thánh đàn om cung nhạc nhã"), ngoài đường tiếng xe tấp nập. Tất cả những ồn ào hân hoan ấy là ở ngoài nhà thờ. Không khí trong nhà thờ thật trang nghiệm, thánh thiện: "Vào trước bàn thờ chầu Thánh Thể/ Tai nghe Thầy giảng Thánh Evan". "Hiện thực" này ở Lisbon ngày nay độc giả có thể gặp ở mọi giáo xứ Việt Nam trong những ngày lễ. Đó chính là tính hiện thực và chất hiện đại trong thơ của Bỉnh.

Ở bài thơ "hòa", nội dung là một "hiện thực" khác. Bạn đọc Công giáo sẽ nhận ra ngay nội dung bài thơ là "diễn ca" đoạn Tin Mừng Luca 2, 41-52:

"Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.

Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!" Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta."


Đối chiếu bài thơ và đoạn Tin Mừng của Luca, người đọc sẽ khám phá những sáng tạo của Lm. Philipphê Bỉnh. Ông vửa bảo đảm chân thực nội dung ý nghĩa của Kinh thánh, vừa tạo dựng hình hượng văn học, vừa bày tỏ tính cảm kính mến gần gũi của mình với thánh Giuse và Mẹ Maria lặn lội tìm con khi hai người lạc mất con.

"Thương Già chống gậy theo chân khách
Xót Trẻ trèo non quặn ruột loan
Một lúc mất Con càng thảm thiết
Trăm đàng khốn Mẹ chẳng an nhàn"


Vẫn là cách sử dụng khẩu ngữ và giọng điệu bình dân, nhờ thế nội dung Kinh thánh trở nên hết sức gần gũi với người Việt. Thơ Bỉnh không nặng nề điển tích như thơ trung đại Việt chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc. Bỉnh đã "diễn ca" (cảm nhận) Kinh thánh theo cách riêng. Ông không kể lại sự việc trong Kinh thánh như một bản sao, mà sáng tạo một không gian mới, dựng lại hình tượng các nhân vật trong bối cảnh mới, thẩm thấu được tình ý sâu sắc của Kinh thánh, và hòa lòng mình vào "hiện thực" Kinh thánh đang diễn ra. Điều này khác với việc "thuật lại" Kinh thánh như thường thấy trong các Diễn ca (ở thì quá khứ- tức là một "hiện thực chết").

Như vậy, bài thơ Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ (cả xướng và hòa) đã đem vào thơ ca Việt một "hiện thực" hoàn toàn mới. Bỉnh đã thực hiện một bước "cách tân" trong quá trình Việt hóa thơ Đường luật. Ông dùng khẩu ngữ và ngữ điệu nói bình dân, nội dung thơ ghi nhận cuộc sống của chính ông và bối cảnh Lisbon đương thời (1796-1830), ngữ liệu thơ là ngữ liệu Kinh thánh và bối cảnh phương Tây, thoát hẳn điển ngữ Trung Quốc trong văn học trung đại Việt Nam. Điều này phải chờ đến Nguyễn Khuyến, người đi sau Bỉnh (1835-1888), mới thực hiện được. Bạn đọc có thể tìm thấy những đặc điểm này trong những bài thơ khác của Bỉnh, bởi Bỉnh có riêng một "thi pháp" cho thơ của ông.

Giá trị hiện thực và giá trị tư tưởng là những giá trị nổi trội của thơ Bỉnh. Điều mà tôi gọi là "hiện thực mới" trong thơ Bỉnh không chỉ có nội dung như "thơ đi sứ" như trong thơ Việt. Bỉnh còn ghi nhận đời sống sinh hoạt ở Lisbon, chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha với Bồ, những quan hệ với bạn và với giáo dân cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado...

Xin đọc các bài thơ:

Về hành trình đi Lisbon của Bỉnh (chất du ký): Bản hội các Thầy viên hành thơ, Kẻ thù ngăn trở thơ, Ở tạm nơi thành Macao thơ, Làm ngăn trở chẳng cho Thầy cả trẩy thơ, Bản hội kí Văn Lịch trẩy đến Macao lại trở về thơ, Buồm cột tầu thơ, Ra khơi vào lộng thơ, Những thành phương Thiên trúc thơ, Thành Cố Lâm Bô thơ, Sở bị Phalansa ăn cướp thơ, Mừng được trẩy sang bên tây thơ, Giúp việc kéo dây đi tầu thơ, Tới đất Ma lai thơ, Gặp trận bão ở giữa biển khơi thơ, Tới thành bà thánh Helena thơ,

Về tình hình xã hội ở Bồ Đào Nha (chất hiện thực và tâm linh): Mừng sinh nhật Hoàng Thái tử thơ, Phalansa phá thành Roma thơ, Vua Napoles giúp thánh Igreja mà đánh Phalansa thơ, Thượng vị Russia đánh được Phalansa thơ, Được vào chầu chực trong đền Vua thơ, Mừng truyền chức Vít vồ mới chính Đông kinh thơ, Mừng Dòng sống lại thơ, Tự tình thơ. Ngợi khen kính chức Thầy cả thơ, Ngợi khen tên cực trọng rất thánh Đức Bà thơ, Tìm thấy thánh Câu rút thơ, Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ, Tạ Quan Bà cho thuốc cao thơ, Khuyến bạn thơ, Khuyến tình thơ chư giáo hữu, Khuyến tình thơ chư đạc đức,...

Dù đã có những yếu tố mới mẻ, nhưng khi sử dụng hình thức thơ Đường luật, thơ của Lm. Philipphê Bỉnh vẫn còn ảnh hưởng thi pháp của thơ trung đại Việt. Đâu đó phảng phất không khí thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Xin đọc: Bản hội các thầy viên hành thơ; Vịnh chúc Quan đại tể tướng thơ; Bản hội kí Văn Lịch trẩy đến Macao lại trở về thơ...

Giá trị tư tưởng mới mẻ trong thơ Bỉnh chính là ở chỗ từ bỏ tư tưởng phong kiến phương Đông (Phật, Nho, Lão), và đem vào thơ Việt tư tưởng thần học Kitô giáo, lòng Nhân ái Công giáo và ánh sáng của Tin mừng. Ông cũng thay thế điển ngữ Trung Quốc bằng nguồn ngữ liệu văn hóa phương Tây. Bỉnh là nhà văn, nhà thơ Quốc ngữ tiên phong trong việc tiếp cận những thể loại văn chương phương Tây (như Dutton đã phân tích ở chương 8 của cuốn sách A Vietnamese Mose. đd). Thí dụ, ở thể loại "Truyện", Bỉnh kế thừa kiểu "truyện" truyền thống và mở rộng đến tầm vóc sử thi, Bỉnh viết lịch sử Việt Nam theo chuẩn mực phương Tây, Bỉnh đem những yếu tố thi pháp phương Tây vào thơ và đặc biệt Bỉnh dùng nhân xưng đại từ "Tôi" trong tác phẩm văn xuôi như một sự khẳng định cá tính sáng tạo: "Tôi là linh mục Philiphê Bỉnh...". Ở Việt Nam, người đồng thời với Bỉnh, cũng là người đầu tiên đưa tên mình vào thơ Nôm để khẳng định tính chất cá nhân trong văn chương là nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772-1822; "Này của Xuân Hương đã quệt rồi"-Mời trầu).

VỊ TRÍ VĂN HỌC CỦA THẦY CẢ PHILIPPHÊ BỈNH


Những tác phẩm của Lm Philipphê Bỉnh là đầu nguồn giàu có của văn học Công giáo Việt Nam viết bằng chữ Quốc ngữ. Đọc thơ của Lm Philipphê Bỉnh, dù thơ ấy được sáng tác cách chúng ta hơn hai thế kỷ, người đọc hôm nay vẫn cảm nhận được sự gần gũi hiện đại. Đó là thơ của một cốt cách thi nhân thuần Việt bền vững, thơ của một Linh mục tinh ròng những phẩm chất Mục tử, và một Philipphê Bỉnh, có những đóng góp rất quý giá cho văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ.

Ước gì rồi đây toàn bộ tác phẩm của Lm Philipphê Bỉnh được Giáo hội giới thiệu ở Việt Nam. Được như vậy, các nhà nghiên cứu văn học sẽ không thể không công nhận sự đóng góp của văn học Công giáo vào những thành tựu chung của văn học dân tộc.

Tháng 12/ 2022, Bùi Công Thuấn
[1] Bùi Công Thuấn: Thầy cả Philipphê Bỉnh-tư liệu-https://buicongthuan.wordpress.com/2022/12/05/thay-ca-philipphe-binh-tu-lieu/

[2] George E. Dutton-A Vietnamese Moses-Philiphê Bỉnh and the Geographies of Early Modern Catholicism. UNIVERSITY OF CALIFORNIA PRESS 2016.

[3] Vài nét về dòng Tên toàn cầu: https://dongten.net/vai-net-ve-dong-ten-toan-cau/

[4] Dutton: “As one of his earlier biographers, Thang Lãng noted, Bỉnh was a scholar across a range of disciplines: historian, linguist, theologian, literary scholar, and, to this we might also add, ethnographer.(Chương 7. Tr. 204)

[5] Xin lưu ý: Bỉnh viết nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ trong khoảng 1807-1830, cùng thời với thời Nguyễn Du (1766-1820) viết Truyện Kiều bằng chữ Nôm (trước hoặc sau 1802).

[6] Trong bàu viết này, tôi dùng “Những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo” do Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên chuyển và chú thích. Định Hướng tùng thư xuất bản và phát hành lần thứ nhất 2004.

[7] Trong sách của Dutton chỉ có bản dịch tiếng Anh. Ông có ghi chú nguồn thơ tiếng Việt của Bỉnh, viết tắt là NT.

[8] Dutton: NT 431

[9] Dutton NT, 431.

[10] Dutton: NT, 437. (BCT: Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo tr.437)

[11] Dutton: NT, 440

[12] Dutton: NT, 438.

[13] Dutton: NT, 441.

[14] Duttun: NT, 443.[ Philiphê Bỉnh, Nhật trình kim thư khất chính chúa giáo (Golden book recording a journey to seek an official religious leader), 1796–1826, ms. Borgiana Tonchinese, Bibliotica Apostilica Vaticana (Dutton, chương 4, tr. 98)]

[15] Dutton-A Vietnbamese Mose- chater 4, p.99

[16] Dutton: NT, 449

[17] Dutton: NT, 452.

[18] Dutton: NT 463

[19] Dutton: NT 464

[20] Dutton: NT, 466.