
1.
Khi bắt đầu viết bài này, trí tôi cứ quẩn quanh suy nghĩ mãi cái ý nên chọn thế nào, giữa những mệnh đề lấp lửng, ỡm ờ, tương tự: Hồi chuông thánh đường, hồi chuông nhà thờ, tiếng chuông nhà thờ, hồi chuông nơi xứ đạo - nhà thờ, hồi chuông trong xóm đạo, tiếng chuông giáo đường-làng quê, tiếng chuông trong nhà thờ giáo xứ, tiếng chuông giáo đường.
Thật ra, mỗi ý tưởng, mỗi mệnh đề trên đều chứa đựng một nội dung riêng, không hẳn giống nhau. Nhưng để dễ hiểu, dể cảm và gần gặn với mọi người, tôi quyết định chọn: tiếng chuông giáo đường. Vừa bình dân, vừa thi vị. Tiếng chuông thì ai cũng hiểu. Ít oi, nhẹ nhàng, tiếng một. Không đổ hồi, không gấp gáp. Nghe rất gần với thi ca, nên thơ hơn. Đơn giản, nhà quê và Việt Nam hơn.
Trước tiên, cứ hãy nghiệm xem, tiếng chuông giáo đường có cái gì mà thiêng liêng thế? Có điều gì mà thân thiết đến vậy? Nó có họ có hàng bà con gần gặn ruột thịt với ca dao Việt Nam. Nó khiến ta nghĩ ngay tới những câu hát quen thuộc trên môi miệng của đời sống dân gian trong luỹ tre xanh, còn đọng lại trong ký ức, dù cách xa biền biệt một phương trời nào, dù ở bất cứ một thời điểm xa lắc xa lơ nào. Tiếng chuông ấy có phải tiếng chuông chùa làng ta, của giáo đường làng ta? Hay chùa bên, làng xa? Đúng là chuông chùa Thiên Mụ. Nó dẫn ta về, chợt nhớ ra cái khung cảnh của bãi cát, màn sương, soi bóng gương trên mặt Hồ Tây.
"Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù bãi cát, màn sương
Nhịp chày Yên Thái, bóng gương Tây Hồ."
Chùa Thiên Mụ gợi nhớ tới những địa danh trong tổng thể cảnh quan ở vùng đất phía Tây của cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Là Trấn Vũ, huyện Thọ Xương, của làng Yên Thái, nơi có nghề giã bột làm giấy cổ truyền từ xa xưa, bên Hồ Tây. Nền nã và yên ả đến nỗi,mãi sau này, cả mấy trăm năm, một ngàn năm có lẻ, vẫn không thiếu người còn lưu luyến mãi, nhớ đến từng chi tiết. Ôi, sông Hương, con sông có thật, mà như ở trong mơ, đầy ma mị, quấn quýt mãi những nhớ nhung da diết. Con sông chảy, mà như không chảy, chỉ chảy vào lòng, nên Huế rất sâu, rất đằm. Như ai kia, dù đã xa quê, sống giữa ồn ã náo nhiệt của phồn hoa đô hội, vẫn nhớ để ví von:
"Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đôi ra những vùng thương nhớ
Cây trúc Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ, chuông xưa, sông hiền, sóng mọn
Những đêm tối bao la, những ngày tháng lớn
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu xương da
Người với chuông như chiều với tối"
(Nhã Ca, 9.1963)
Đấy là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ, làng Kim Long, bên kia bờ sông Hương, ngoại ô kinh thành Huế. Cũng như tiếng chuông nhà thờ. Không hiểu vì sao, có sức lôi cuốn,gây cảm xúc trong tâm hồn người nghe? Chỉ là một tiếng va chạm, một tiếng động, âm thanh bình thường đến khô khốc của các loài kim khí. Chứ đâu phải là tiếng ngọc vỡ, châu chìm gì cho cam? Nhưng rõ ràng, là âm u, kỳ diệu, mê hoặc. Bởi thế, đời nhà Đường, mới có ông thi nhân nằm ngủ qua đêm trên con thuyền đậu dật dờ ở bến Cô Tô. Giữa đêm khuya, thức giấc nghe tiếng chuông chùa Hàn Sao vọng lại, vang ngân trên mặt nước, ngẫu hứng ngâm tràn bài thơ hào sảng:
"Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh náo khách thuyền"
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô/Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sao - Tản Đà chuyển dịch)
Hồi chuông chùa Thiên Mụ gióng lên mỗi sớm mai bên kia bờ sông Hương, Huế. Như muốn nhắc nhở người ta rằng mọi chuyện trên cõi đời này đều là phù hư, giả tạm, vô thường. Như ai kia đã cảm thán:
"Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa".
Thiên Mụ, đôi khi còn gọi là Linh Mụ, ngôi chùa cổ xa xưa trên ngọn đồi của xã Hương Khê, huyện Hương Trà, kinh thành Huế, có sách sử ghi là từ năm 1553.Cái thế đặt chuông bấy giờ, vẫn toạ lạc trên đồi cao hơn mặt nước sông Hương khiến âm thanh truyền dẫn đi xa thật xa. Chuông đó đúc năm Canh Dần (1710) với đặc tả: Cao 2m50; R 1m40; P 1.986kg. Có bài chú nguyện cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an. Nghe đồn rằng năm xây tháp Từ Nhân này, từ giữa thế kỷ XVIII, có văn bia và bài mịch ghi rằng "Bách bát hồng thanh triệu bách kế/ Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên" có nghĩa là 108 tiếng chuông làm tiêu tan trăm nỗi kết muộn phiền/ ba nghìn thế giới tỉnh ba duyên. Nhưng qua thời gian và binh biến, loạn ly, thiên tai, chuông ấy biến đi đâu mất tăm mất tích?
Chuông hiện nay là chuông Gia Long niên hiệu thứ 14 (1815), có quy cách, phẩm trật định liệu đàng hoàng. Người đánh chuông là người giữ nhịp thời gian do triều đình cắt cử, sắp xếp. Có đánh, có thỉnh thì thỉnh chuông vào 2 thời điểm nhất định trong ngày: 3 giờ 30 sáng và 7 giờ 30 chiều tối. Thỉnh đúng 108 tiếng đều nhịp, ngân nga trong thời hạn 60 phút, chia ra đêm 5 canh và ngày 6 khắc, để xoá tan 108 nỗi phiền muộn trong thế gian. Thế gian trong tam giới có: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới đều có chung bát khổ là sinh, lão, bệnh, tử; ngũ ấm xí thạnh; oán tần hội; ái biệt ly, cầu bất đắc khổ. Dân gian kể, người xưa gắn liền chuyện hiểu biết với hạnh nguyện đánh chuông, nghĩa là biết người đánh chuông khoẻ/ yếu, vui/ buồn. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang xa khắp vùng Nguyệt Biều, Long Hồ, Ngọc Hồ mãi bên kia sông ai cũng nghe rõ mồn một.
2.
Đã nói đến chuông thì cũng phải nói đến nghề đúc chuông luôn thể. Nghề này không dễ đâu. Phải có linh thánh, nghiệp tổ, cha truyền con nối, có căn tu, tính hạnh mới hành nghề được. Cả Bắc, Trung, Nam nước ta chỗ nào nơi nào chả có. Nhưng chân truyền chính thống thì hiếm, nhất là những năm gần đây, chiến tranh, thiên tai dịch hoạ và nhịp đời đô thị - công nghiệp hoá bỗng nở rộ. Chán vạn kẻ tay ngang vào nghề. Nếu ở miền Bắc có Kiên Lao, Trung Lao thì ở miền Trung, còn nghe tiếng có làng nghề Phường Đúc và một hai nơi của Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... con cháu rơi rớt giữ nghề này.
Đặc biệt, nghe kể, chuông làng Phước Kiều danh trấn một phương ở xứ Quảng. Ông Dương Ngọc Chúc, còn có tên Dương Không Lộ là một trong những bậc tiên hiền dày công khai mở và lưu cữu nghề đúc đồng Phước Kiều, tính đến nay đã trải 400 năm. Làng nghề toạ lạc trên khu vực dinh trấn Thanh Chiêm xưa của xứ Đàng Trong (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), từng ít nhiều, gần xa tham gia đúc loại súng thần công từ thời các chúa Nguyễn vào mở cõi ở phương Nam, đánh Xiêm, kháng Pháp. Đến đời Minh Mạng thứ 6, nghệ nhân làng Phước Kiều còn đúc được tiền, ấn tín, đĩnh, vạc, lư hương, giáo mác cho triều đình Huế. Những năm sau chiến tranh và bao cấp, làng nghề tản mác dần. Nay cả làng, nhờ du lịch phát triển, đã lại có hơn 30 gia đình, hơn 100 nghệ nhân, thợ đúc làm sống lại nghề truyền thống. Từ đó, một chiếc chiêng lớn nhất Việt Nam đúc từ năm 2008 có đường kính 2.5 mét; trọng lượng 700 kg ra lò. Họ cũng đã đúc được đại hồng chung từ 400 kg - 500 kg cho các chùa tại Đà Nẵng, Tam Kỳ. Có một số nghệ nhân nổi tiếng thẩm âm thiên phú đã được thỉnh vào các chùa ở Vũng Tàu đúc chuông 600 kg và một công trình đại hồng chung nặng 1.8 tấn cũng đã hoàn công mỹ mãn. Người dân làng Phước Kiều vừa nổi tiếng nhờ pha chế, nung đúc các kim loại là một lẽ; họ cũng có biệt tài trời cho đôi tai thẩm âm, đã làm cho tiếng ngân những sản phẩm thờ tự, lễ hội (cồng chiêng cho các buôn làng vùng cao) của họ ngày càng trở thành một giá trị truyền thống riêng biệt. Không có họ, chỉ rặt là thứ kim khí pha tạp loảng xoảng, vô hồn. Ngoài ra, còn phải kể đến giá trị văn hoá đặc biệt của dân làng Phước Kiều, vì nơi đây cách 400 năm, đã là chiếc nôi để các giáo sĩ De Pina, C. Borri, Alexandre De Rhodes an trú, giảng đạo và sáng tạo ra chữ viết quốc ngữ theo lối La Tinh mà chúng ta xử dụng cho đến ngày nay.(1)
Nghe tiếng chuông, biết phân tích và đánh giá đúng độ tuổi và sinh mệnh của chuông, thật sự là một nghệ thuật không dễ chút nào. Cũng là chuông, nhưng phải tách bạch chuông Tây, chuông nam, chuông đồng, chuông vàng bạc quý kim, chuông già lửa hay chuông đúc non v.v... Có nhiều điểm tương đồng và dị biệt giữa chuông nhà chùa và chuông nhà thờ. Phân tích kỹ, cả hai đều mang ý nghĩa khác nhau.
- Chuông chùa thường là chuông nam (chuông ta) bằng đồng, mỏng, dùng chày vồ bằng gỗ thúc theo chiều ngang từ ngoài vào mấy cái núm nhô lên ở xung quanh thân chuông, gây ra hiệu lệnh, gõ đều nhịp từng tiếng một để thỉnh theo tiếng tụng kinh. Các tăng ni cứ theo đó mà tuân thủ giờ giấc và thỉnh mời thiện nam tín nữ vào cuộc tụng kinh niệm Phật. Chuông đặt (treo) trong lòng gác khánh ngay trong khuôn viên chùa, tiếng chuông vì thế, không vang xa, mặc dù vẫn nghe chuông ngân nga theo lời kinh ê a rền rĩ. Bỗng nghĩ đến chuyện cắt đứt dây chuông chùa xưa trong truyện tình Lan và Điệp và lại nhớ truyện tình chú tiểu Lan và Ngọc ở chùa Long Giáng, trong Hồn Bướm Mơ Tiên của nhà văn tài hoa yểu mệnh Khái Hưng.
- Chuông nhà thờ: thường là chuông Tây (thuê đúc ở Marseille, một tỉnh nổi tiếng đúc chuông của Pháp) một hợp kim bằng đồng đỏ+vàng+bạc nấu kỹ trong lò lâu hơn, khó hơn; độ dày hơn; trọng lượng nặng hơn; miệng chuông loe ra, có cái cả thước hoặc hơn. Khi giật, kéo, đẩy chuông để con lắc (quả đòi) va lắc qua lại, tác động vật lý từ bên trong; chuông lắp đặt trên tầng tháp cao so với mặt đất, nên vang xa hơn. Nghe nói phải thuê đúc từ cả năm trước, chở bằng tàu hàng hải mấy tháng mới về tới nhà. Chuông lớn và nặng, cột dây cáp hoặc da trâu da bò, dây thừng lớn, khi kéo, chuông và quả đòi nặng cuốn cả người giật chuông đu đưa lên xuống. Chuông làng tôi lớn, có sức kéo một người lớn lên cao, xuống thấp. Đã có lần dại dột, lũ trẻ con chúng tôi đeo bám dây chuông. Ai dè, sức nặng quả đòi kéo nhấc bổng hai đứa trẻ chúng tôi lên, hết hồn. Nếu nhắm mắt và lắng nghe, sẽ thấy có khác biệt và thú vị lắm. Mặc dù cả hai đều là chuông đồng, loại kim khí có mục đích gây sự chú ý, tập trung suy nghĩ, xả bỏ những áp lực của hiện tại, chữa lành thân tâm.
Theo ngũ hành, chuông (kim)+ chày (mộc)= nhịp khoan hoà. Chuông không rung lắc, theo thể tĩnh, âm thanh theo chiều thẳng đi xuống(thổ)= âm thương, trầm độ vang ít.
Theo ký âm học, chuông chùa có âm hưởng Rê- Mi từ 417-569 hz giúp loại bỏ tắc nghẽn tâm thức, cân bằng ADN, thôi thúc tình cảm và xả bỏ phiền não hệ luỵ. Chuông nhà thờ có âm hưởng Sol-La từ 529-890 hz đánh thức giác quan, kết nối cộng đồng, tăng gia cảm xúc, cân bằng suy nghĩ, dẫn dắt hành động.
3.
Đến Kim Sơn, Ninh Bình với nhà thờ đá Phát Diệm của Cụ Sáu Trần Lục lại là một khám phá kỳ thú, khó tả. Chỉ nói riêng chuyện mấy cỗ chuông thôi nhé. Xin lỗi, tôi phải lạy Cụ là bậc kiệt xuất, cả về mặt văn hoá, mục vụ và tài năng xoay xở, xây cất, sắp xếp trong ngoài ngôi nhà thờ để xứng đáng được tôn vinh vào hạng "di sản văn hoá quốc gia". Hãy tưởng tượng, trong hoàn cảnh lịch sử và kinh tế khó khăn cuối thế kỷ XIX, với điều kiện cực kỳ thiếu thốn, thô sơ về kỹ thuật, nguyên một việc tính toán để thực hiện được một công trình kiến trúc quy mô, vĩ đại như thế, thật đáng tâm phục khẩu phục lắm rồi.
Ngạc nhiên chưa, từ lối kiến trúc đình chùa phương Đông đến bố cục cảnh quan các hạng mục, tượng ảnh, phương hướng, phong thủy. Đặc biệt ở cái tháp chuông, bộ chuông, tiếng chuông rất riêng. Nghe đâu, Cụ Sáu (Cha Phê rô Trần Lục, 1825-1899) cho đặt riêng chuông ở phương đình, hoàn thành năm 1899, là một công trình kiến trúc tháp chuông nhà thờ pha lẫn đình làng+ cổng thành của kinh thành cố đô Huế. Bản ký họa văn hóa nghệ thuật nhà thờ đá Phát Diệm cho ra những ẩn số sau đây.
Là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, nhà thờ đá Phát Diệm gồm nhiều công trình: Phương đình, nhà thờ lớn, hang đá, nhà thờ đá... Toàn bộ công trình do cha Trần Lục(thường quen gọi là Cụ Sáu) chủ trì xây dựng từ năm 1875 đến năm 1899 mới hoàn thành. Đất vùng này là phù sa bồi đắp nên yếu. Để có nền móng vững chắc, cụ Sáu đã cho đóng ngập xuống một"rừng tre" sâu tới 30 thước. Những phiến đá hoa,cột gỗ lim trắc quý nặng hàng tấn được voi, trâu và bè nước dịch chuyển kết hợp với sức tính toán của đầu óc con người, từ rừng núi Thanh Hoá, Châu Lào cách đó hàng vài chục cây số. Khác biệt hoàn toàn với những nhà thờ Công giáo bấy giờ đang xây theo phong cách của phương Tây, như Gothic hay Roman, Phát Diệm mang một dáng dấp rất Việt Nam. Công trình được bố trí theo phong thuỷ, với hồ nước là minh đường tụ thuỷ(để tích phúc) và núi phía sau là hậu chẩm tựa sơn (chỗ dựa vững chắc). Riêng phương đình(tháp chuông) gồm 3 tầng, trên tầng 3 có treo quả chuông nặng gần 2 tấn đúc nấu từ năm 1890. Hai mái uốn cong hình mũi thuyền, gợi nhớ ngôi đình làng truyền thống của ta. Nhà thờ Trái Tim Đức Mẹ (15.3 x 8.5 m) có song cửa, tường, cột nền hoàn toàn bằng đá trụ, nên thường gọi là nhà thờ đá. Phù điêu tạc từ đá xanh nguyên khối. Nhiều hoạ tiết được nghệ thuật chạm trổ tinh xảo, vẽ nên tứ cảnh tứ bình: tùng, mai, cúc, trúc, phong, hoa, tuyết, nguyệt, ngư, tiều, canh, mục. Nhà thờ lớn có kích thước: dài 74m, rộng 21 m, cao 15 m. Trong thánh đường, chia làm 10 gian, có 52 cây cột gỗ lim nguyên cây, trụ đá dưới chân; hàng cột giữa, chu vi 2.4m, cao gần 12 m. Các phù điêu khắc chạm hình thiên thần bưng bình nước phép, trên tường 5 lối vào nhà thờ đều có khắc các câu trích từ Kinh Thánh bằng tiếng La Tinh. Báo L'Avenir du Tonkin năm 1938 mô tả: "Những cảnh diễn lại sự tích trong Kinh Thánh, đều có bóng lá sen, cây cau, cây chuối che phủ. Và ở trên lại có mấy pho tượng thiên thần, trông như nhà bày cảnh muốn đem cái tâm hồn nước Nam thu vào một cảnh con con tươi đẹp ấy để dâng lên đấng Chí Tôn nơi cửu trùng."(2)
Chuông ở đây là chuông (chuông Tây + chuông Nam) đánh bằng chày vồ thúc ngang lưng thân chuông, tập trung vào 4 cái núm vú đúc nhô cao, có dụng ý thâu thập âm thanh cao thấp. Chuông được đúc năm 1890, có nhiều chi tiết đáng lưu ý: cao 1.90 m (cao hơn người đứng thẳng); đường kính 1.1 m; nặng non 2 tấn; 4 núm khắc tên 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông; tiếng chuông có thể vang xa hơn 10 km, lan trên mặt hồ ao trong khuôn viên và ao hồ mênh mông, như bản thân tôi đã từng lắng nghe và định lượng. Bốn phía mặt chuông đều có khắc chữ:
- mặt tây bắc: chữ La Tinh: Laudo Deum verum, voco plebem, congrego clerum, defunctos ploro, pestum fugo, festa decoro (tôi ca tụng Chúa, tôi gọi mời dân chúng, tôi triệu tập giáo sĩ,tôi than khóc người qua đời, tôi xua tan dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ hội). Đọc và suy nghĩ kỹ những dòng ghi chú này, ta thấy tiếng chuông nhà thờ đá Phát Diệm chuyên chở nhiều âm vực trầm bổng cùng ý nghĩa mang đậm tâm linh: ngợi ca, kêu gọi, triệu tập, than khóc và tô điểm. Như một dàn hợp âm khi rộn rã, tưng bừng, hoan hỷ; lúc lại chậm rãi, khoan hoà, tha thiết. Hẳn ai nấy không thể nào quên những hồi chuông vang lên trong các bài thánh ca mùa Giáng Sinh nơi các nhà thờ đêm Noel: Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night Holy Night, Jingle Bell, Cao Cung Lên...trong ngày lễ Giáng Sinh nơi các nhà thờ Công giáo.
- mặt tây nam là những dòng chữ: Sancta Maria, Sanctus Joseph, Sanctus Johannes Baptista, Anno Domini 1890. Đây là thánh danh của Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, Thánh Gioan Baotixita và đánh dấu Năm Thánh 1890.
- mặt đông nam: Phát Diệm xứ công vật (tài sản chung của giáo xứ Phát Diệm).
- mặt đông bắc: Thành Thái Canh Dần, 1890. (Chuông đúc dưới triều vua Thành Thái, năm Canh Dần, 1890).
Chuông nhà thờ có nhiều hiệu lệnh:
- Chuông báo thức: 3-4 giờ mỗi sáng sớm (sớm, muộn tuỳ theo hoàn cảnh địa lý, khu vực). Khởi đầu là 1,2,3 tiếng cách nhịp; rồi tiếp một hồi dài không kể. Người nhà quê có thói quen dậy sớm, nghe chuông (chuông nhất, chuông hai) để đọc kinh dâng mình. Ai nấy, chẳng cần nhắc nhở, biết ngay là chuông báo thánh lễ. Ở các thành phố thì chuông báo trễ hơn, chừng 5, 6 giờ sáng, vì có ý để người dân thành phố ngủ thêm.
- Chuông giữa ngọ: 12 giờ trưa. Gõ 3 tiếng đều nhịp, tiếp theo là một hồi dài, gọi là chuông Truyền Tin. Đưa tay làm dấu thánh giá và xướng kinh Truyền Tin: Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần Truyền Tin cho Đức Bà Maria. Mùa Chay và Thương Khó, nguyện kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng...
- Chuông chiều: 4-5 giờ mỗi chiều, khi nắng tắt, trời ngả bóng chạng vạng. Chuông chiều ở nhà thờ thường trùng hợp với chuông nhà chùa và tiếng trống thu không của đình làng. Mọi người thu xếp công việc đồng áng, chợ búa để về nhà.
- Chuông báo tử: khi có người qua đời. Chuông đổ 1,2,3 tiếng rồi ngân nga thêm 7 tiếng cho nam và 9 tiếng cho nữ. Ai nấy im lặng một phút, thầm đọc Kinh Vực Sâu cầu cho người quá cố.
- Chuông báo động: khi có biến, chẳng hạn chiến tranh, hoả hoạn, dịch tễ, vỡ đê, lũ lụt. Chuông đổ hồi gấp gáp, dồn dập. Nhà thờ lúc ấy thường là nơi yên bình nhất để người ta tựu về, nương náu.
Có ai ra Huế, vào thăm nhà thờ giáo xứ Phường Đúc, tại địa chỉ 321 Bùi Thị Xuân, Phường Đúc, thành phố Huế, ngôi nhà thờ cổ đã có lịch sử gần 400 năm. Riêng xưởng đúc đồng của Phường Đúc, nghe đâu trước kia là xưởng đúc súng thần công,có từ năm 1658, đời chúa Hiền Vương. Là dân nội ngoại thành Huế, mỗi sáng sớm, ai nấy đều nghe rõ tiếng của hơn một trăm ngôi chùa lớn nhỏ đồng loạt thỉnh chuông. Trong chùm âm thanh đạo hạnh ấy, có pha lẫn tiếng chuông nam của nhà thờ An Vân và Phường Đúc xen kẽ. Được biết, nhà thờ An Vân được xây dựng muộn lắm cũng là từ năm 1907 tại 118 Lý Thần Tông, làng An Vân, xã Hương An, huyện Hương Trà, cách kinh đô Huế non 8 km về phía Tây Nam. Nơi đây có tên rất Việt Nam, là Thánh Đường Thánh Mẫu Môi Khôi. Giáo dân An Vân sùng kính Đức Mẹ rất đặc biệt, thể hiện qua đài Đức Mẹ ở mặt tiền, trên thân chuông có một bài minh khắc thuần chữ Hán, là kinh "Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ Rất Nhơn Từ, Xin Hãy Nhớ xưa nay chưa từng nghe có ai chạy đến..." Bên dưới miệng chuông, ghi rõ hàng chữ: Đồng Khánh Năm Mậu Tý(1888), tiết tháng 2.
4.
Trở lại tiếng chuông giáo đường làng tôi.
Theo lịch sử và ký ức của những người trọng tuổi kể lại.Ngay từ thời nhà Mạc. Nhà thờ buổi sơ khai mịt mù ấy chỉ là ngôi nhà của dân sở tại, nhà tranh, vách cây sơ sài giửa đồng không mông quạnh, quanh năm gió mùa. Mãi đến giữa thế kỷ XIX, một số người có đạo tản cư vì chạy trốn quan quân nhà Tây Sơn (1778) từ Thanh Hoá, Nam Định về. Nhà thờ - tháp chuông, chỉ là một ký ức nhạt nhoà. Gốc tích quê quán cũ xưa, người còn lại chẳng nhớ bao nhiêu. Còn người đi Nam năm 1954 cũng chỉ nhớ mài mại. Chẳng hạn, họ gọi tên làng bằng tên các chợ, như làng Guộc, làng Me, làng Giành, làng Vẽ, làng Ngọt... Đấy cũng vì, có dạo, quen thói nhà quê nhà mùa, người ta ghép hai, ba huyện, hai ba làng thành một, như: Cẩm Bình (Cẩm Giàng + Bình Giang); Vũ Thư (Vũ Tiên + Thư Trì); Xuân Thuỷ (Xuân Trường + Giao Thuỷ); Tiên Sơn (Tiên Du+ Từ Sơn); Quế Võ (Quế Dương+ Võ Giàng); Thái Thuỵ (Thái Ninh+ Thuỵ Anh). Khốn khổ nhất là các nhà giáo dạy môn Sử Địa trong Nam rối óc không biết đâu mà lần. Lại cũng tại mấy ông bà tổ chức chính quyền hành chính phía Bắc sau biến cố 1954, vì phong trào thi đua, hãnh tiến ta đây muốn chứng tỏ cấp tiến, nên mới nảy sinh cố tật nặng hình thức chủ nghĩa phải đeo cái tên nặng mùi chính trị: Trần Phú, Hồng Phong, Minh Khai, Sao Đỏ, Đoàn Kết, Chiến Thắng, Cờ Hồng, Quyết Thắng, Công Nông, Sao Vàng... Phải chăng, đó là hệ quả đắng cay của các đợt: cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm và trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng của hồng vệ binh Trung quốc những năm 1953, 1954, 1956, 1957.
Theo sách cổ "Các Trấn Tổng Xã Danh Bị Lãm", đời Hậu Lê (1600-1788), đời Tây Sơn (1788-1790) và Gia Long (1800-1819) trở về trước, nước ta chưa có tỉnh Thái Bình. Chỉ có phủ Thái Bình, tính từ triều Thành Thái (1894), là một trong 5 phủ thuộc trấn Sơn Nam Hạ, gồm: Thiên Trường, Nghĩa Hưng, Kiến Xương, Tiên Hưng và Thái Bình. Lúc đó, phủ Thái Bình chỉ có 4 huyện là Đông Quan (tức Thanh Quan đời Lê - Mạc và Hậu Lê), Thuỵ Anh, Quỳnh Côi, Phụ Dực. Riêng huyện Thuỵ Anh có 9 tổng, 59 xã. Chín tổng là: Hổ Đội (7 xã); Quảng Nạp (7 xã); An Bái (7 xã); An Định (6 xã); Vạn Xuân (7 xã); Bích Du (6 xã); Cao Dương (6 xã); Ninh Nha (4 xã) và Hoành Đường (9 xã). Tính riêng tổng An Bái có 7 xã cũ là: An Bái, Quỳnh Lý, Vân Am, Đăng Trường, Kha Lý, Tu Trình và Thọ Cách. Sự tích đầu đuôi của tỉnh Thái Bình, căn cứ vào sách "Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời" của cố học giả Đào Duy Anh thì thế này: "Năm 1894, Thành Thái thứ 6, chính quyền Pháp và triều đình Huế lấy phủ Thái Bình, gộp thêm các huyện Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải của phủ Kiến Xương và 2 huyện Duyên Hà, Hưng Hà của phủ Tiên Hưng, để đặt ra tỉnh mới tên là Thái Bình.
Xem như thế, mới rõ huyện Thuỵ Anh, tổng An Bái từ xa xưa, có lẽ là đất dung thân cho những người bị truy nã, bức bách phải bỏ quê cũ ra đi. An Bái có nghĩa là"lời lạy van trời đất cho yên ổn" đủ nói lên nỗi niềm tâm tư mong cầu bình an để sinh sống. Đây là vùng đồng chua nước mặn, không cách xa cửa biển Thái Bình bao nhiêu. Còn dòng họ Lê vốn là một chi nhánh có gốc Đông Sơn, Thanh Hoá, là hậu duệ của nhà Lê, từ dòng Lê Duy là con cháu đời ông Lê Trừ, anh của vua Lê Lợi. Năm 1556, vua Lê Trung Tôn bị Trịnh Kiểm giết. Kiểm tiếm quyền, đem đứa cháu xa đời cụ Lê Trừ lên làm vua là Lê Duy Bang, tức Anh Tông hoàng đế (1556-1573). Về sau đến đời Nguyễn, họ Lê thất thế,phải đổi ra họ Lê Quang. Ngoài ra, đời Tự Đức, có Pedro Tạ Văn Phụng mạo nhận là Lê Duy Minh của dòng dõi nhà Lê. Vua Tự Đức và đám nho sĩ Văn Thân ra sắc dụ cấm đạo gay gắt bách hại, tàn sát người theo đạo Chúa trong hàng ngũ Pedro Phụng, Cai Tổng Vàng. Con cháu họ Lê Duy, Lê Quang bỏ quê, chạy tứ tán về Thái Bình, Quảng Nam, Bình Định thay tên đổi họ, lập ấp, lập làng mới.(3)
Theo truyền thuyết, làng tôi là một bãi bồi, do phù sa sông Hoá tạo nên. Dọc theo bờ sông là đồng lúa bên trong chân đê, liền lạc dấu vết của những đầm lầy đỏ ối, những bãi cói xanh um, lấm láp, ngập đầu. Mỗi năm, mưa lũ về là dịp để ruộng đồng, vườn tược thay áo mới, trông mầu mỡ hẳn lên, như cô gái trổ mã, dậy thì. Thọ Cách quay ra 4 phía: Đông là sông Hoá; Tây giáp làng Kha Lý. Nam nhìn lên Vân Am và Bắc trông ra hướng bến bãi - cánh đồng chạy dài tới cửa biển Ba Ra, xuống tận cửa Diêm Điền. Bên kia sông Hoá là những cánh đồng cỏ xanh rì và 18 thôn Am của tỉnh Hải Dương, như: Cổ Am, Nam Am, Tiên Am, Trung Am, Hội Am, Cát Am, Lôi Am... Có truyền thuyết kể rằng, do người 18 thôn Am đào đất đắp ao hồ, làm nhà sao đó, bị động mạch tổ, nên cả làng Vân Am phải liều vượt sông Hoá, qua dựng ấp lập làng bên này. Bởi thế mới có câu "Mười tám Am, sang Nam mất một". Cổ Am, nổi tiếng "con gái đẹp" khéo may vá, chợ búa, nên đắt chồng. Cũng có câu ca "Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện" nghĩa là con gái làng Cổ Am có giá lắm, so với con trai làng Hành Thiện bên Nam Định. Mà thật, vùng đất Cổ Am nổi tiếng chữ nghĩa, buôn bán làm ăn khấm khá. Danh giá nhất là dòng họ có nòi văn học, như anh em nhà văn Khái Hưng, Trần Tiêu và anh em họ Đào về từ điển, như Đào Duy Anh, Đào Văn Tập. Thời chiến tranh chống Pháp 1946-1954, cả vùng Cổ Am cùng chung cảnh ngộ loạn ly tan hoang. Người ta còn thuộc lòng câu ca:
"Hoạt Thành, Tiên Lãng ra tro
Thuỵ Anh, Vĩnh Bảo ăn no kẹo đồng."
Chả là Vĩnh Bảo, Tiên Lãng là 2 huyện của Hải Dương ăn nên làm ra nhờ nghề trồng và buôn bán thuốc lào cùng với huyện Thuỵ Anh bị máy bay Pháp bỏ bom cháy rụi.(4)
Trở lại chuyện nhà thờ - tháp chuông làng tôi. Năm 1865, do cấm cách ngặt quá, chỉ còn ít người nhóm lại căn chòi lá, bên sông. Nhà thờ sau đó cũng bị quan quân ruồng xét, phá bình địa. Mãi sau 1888, tình hình đã thông thoáng. Giáo dân lại tựu về, dựng nhà thờ mới, có cái tháp chuông bằng gỗ, như kiểu chòi canh, treo quả chuông Tây bé tí. Năm 1901, nhà thờ được trùng tu, cơi nới rộng ra mấy gian. Mãi đến 1935, nhờ cha bản hương du học Roma về có tậu thêm làm quà cho dân làng một quả chuông tây lớn lắm. Người trong làng chung nhau tiền bạc, góp công góp sức dựng một cái tháp chuông cao. Từ dạo ấy, nhà thờ mới có tháp, không chịu thua chị kém em các xứ xung quanh. Ở nhà quê xưa, tháp chuông càng cao, chuông càng lớn thì tiếng tăm của giáo xứ ấy càng nổi đình nổi đám. Như người đời vẫn nói, "chuông nhà thờ nào thì nhà thờ nấy đánh, thánh nhà thờ nào thì nhà thờ nấy thờ". Khổ nỗi, chiến cuộc tàn phá hết, đâu có chừa ai? Hết máy bay Pháp, rồi máy bay Mỹ về, bỏ bom, phá đổ hết. Nhà thờ bình địa, tháp chuông gãy gục, quả chuông vỡ đôi vỡ ba. Xóm làng vắng tanh vắng ngắt. Không một bóng người lai vãng. Làng tôi lại một phen chạy giặc, tản cư, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Năm 1955, hai phần ba dân làng đi Nam hết. Cuộc di cư ồ ạt 1954 khiến cảnh làng tôi lâm vào cảnh xơ xác. Đám dân còn lại đã nghèo, vẫn không thoát tai hoạ đổ ập xuống thêm một lần nữa, vào tháng 7 năm 1972, máy bay Mỹ gầm rú, quét sạch sành sanh.
Nhà thờ nào, dù lớn hay nhỏ, đều phải có tháp chuông, gác chuông, một cái đứng riêng hoặc là tháp đôi. Cao, vừa, thấp lắm là cái tháp bằng sắt kiểu chòi canh bốn chân kiềng của đồn bót nhà binh. Tôi có cảm tưởng, cái bóng tháp là cả một kho tàng chứa đựng rất nhiều kỷ niệm của ngôi làng. Còn nhớ những năm bé bỏng ngày xưa, lũ trẻ con chúng tôi thường tụ tập chạy chơi dưới bóng tháp này, ở ngay chỗ cái chuông Tây treo lơ lửng trên đầu. Vừa nô đùa, vừa sợ cái chuông lỡ ra đứt dây, chụp xuống. Nó thiêng liêng lắm, là biểu tượng của đức tin bền vững, là tiếng Chúa gọi dân làng. Một khi nó bị đổ xuống thì bao nhiêu ngọn lửa đức tin, lòng thành của họ cũng tàn phai, nhạt nhoà hết trơn hết trọi.
5.
Từ sớm lắm, tôi nhớ thế. Tháp chuông giáo đường đã in đậm vào ký ức, cả vào từng trang dòng của văn học và nghệ thuật của ta. Nó như quyển sử ký của người có đạo. Nói đâu xa. Cứ nhẩm từng câu hát là thấy hiện ra trước mắt. Hình như, từ khi có âm nhạc cải cách(tiền chiến) là đã có hình ảnh làng quê, giáo đường, tháp chuông. Người nhạc sĩ chính là người viết sử bằng nghệ thuật, họ gửi tâm hồn họ vào từng cung bậc, giai điệu, ca từ.
Trước hết, phải kể đến bước đột phá của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ (1921-2022). Ngay từ buổi hừng đông của tân nhạc Việt Nam những năm đầu thập niên 1930- 1931. Trong lúc các nhạc sĩ như Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Thẩm Oánh, Văn Chung, Nguyễn Văn Cổn xem ra còn vướng vít những bóng hình cũ ước lệ của bướm hoa, của phong cảnh non nước hữu tình. Thì Nguyễn Thiện Tơ đã bước một bước thật dài và mạo hiểm vào đề tài hoàn toàn mới lạ: tình yêu lứa đôi trong khung cảnh giáo đường Công giáo đêm Giáng Sinh. Giáo Đường Im Bóng (1931) khắc hoạ những chi tiết hoàn toàn bên đạo: Giáo đường, ánh sáng, tiếng chuông, thánh kinh, thánh giá. Và em hiện ra "dáng xinh tiên kiều", còn tôi là "cái tôi ngàn đời mến yêu", "trong giáo đường đêm Noel", "tiếng chuông chiều ngân", "đắm đuối trên trên làn sóng mắt nàng"... Ngần ấy thứ, vâng, ngần ấy thứ xem ra xa xỉ lắm, đắt giá lắm, rõ ràng là "hàng đạo, của nhà thờ, của Chúa", không lẫn vào đâu được. Trước đó, chưa một ai dám liều mạng như thế. Nguyễn Thiện Tơ, một mình, một cõi. Không giống ai. Chỉ có ông và người con gái ông yêu trong hội hát của nhà thờ thành Nam đêm Giáng Sinh năm ấy, năm 1931, nàng kiều nữ Vũ Hà Tiên.
"Nhớ tới đêm đầy ánh sáng
Hương trong gió tràn mênh mang
Giây phút như ngừng thôi rơi
Tiếng kinh muôn lời
Dáng xinh xinh bao tiên kiều
Quỳ ngân thánh Kinh ban chiều
Trong giáo đường đêm Noel ấy
Ngàn đời tôi mến yêu"
...
"Thánh giá xa vời lắm với chuông chiều ngân
Hồn thánh thót mưa dầm buồn tới âm thầm
Nơi giáo đường im bóng tôi thầm mong ngóng
Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ"
(Giáo Đường Im Bóng, 1931)
Với Nguyễn Thiện Tơ thì đắm đuối như thế, nhưng ở người anh cả của làng tân nhạc Việt Nam là Nguyễn Xuân Khoát (1910-1993) chỉ loáng thoáng lướt qua, mới bén mùi, chưa quen. Hình như còn chuẩn mực, đạo hạnh lắm thì phải. Cho nên, hồi chuông và nhà thờ của ông chỉ là tiếng kêu xin Chúa ban phước lành của một tín đồ ngoan đạo.
"Giêsu Maria lạy Chúa tôi
Đây, xưa nay ngày chủ nhật những hồi chuông
Tiếng chuông nhắc nhở
Cầu Chúa ban phước lành"
(Tiếng Chuông Chiều,1946)
Năm 1947, giữa khói lửa của cuộc toàn quốc tiêu thổ kháng chiến, nhạc sĩ Văn Cao đã diễn tả nỗi đau cắt da cắt thịt khi chứng kiến cảnh hoang tàn của giáo đường làng quê. Một hôm trở về, không được nghe tiếng chuông nhà thờ rung văng vẳng trong luỹ tre, một hình ảnh đã in sâu trong tâm trí ông. Văn Cao đã truyền cảm hứng có thật trong lòng cho chúng ta.
"Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung...
Chiều vắng tiếng chuông ngân, phá tan nhà thờ xưa...
Là lúc tiếng chuông ngân, tiếng chuông nhà thờ rung...,"
(Làng tôi, 1947)
Càng đọc, càng hát, càng thấy, rõ ràng nhà thờ chỉ là nhà thờ khi có tiếng chuông ngân. Không thể tách rời tiếng chuông ra khỏi giáo đường. Dù bên lương hay bên giáo trong làng đều nghe, đều cặm cụi đồng áng, chợ búa, vườn tược, hội hè theo tiếng chuông: chuông đánh thức ban sớm, ra đồng; chuông giữa trưa nghỉ tay, cơm nước. Chuông chiều về, thong dong trên đường làng sau một ngày mệt mã. Đôi khi, bỗng dưng ngừng tay, im lặng nghe từng giọt, từng giọt chuông nhà thờ ngân vang trong yên ắng,báo tin có người vừa nhắm mắt, lìa đời. Nguyện thầm một kinh vực sâu.
Ở một tình cảnh khác, khi người ta đương yêu, chẳng hạn. Nhà thờ, lầu chuông, gác chuông, tháp chuông, giờ lễ, cầu kinh và em đã trở thành một xâu chuỗi những kỷ niệm, không thể tách rời. Cái đẹp nằm sẵn trong đứt đoạn, chia lìa. Chàng trai trọ học Kiên Giang (1929-2014) và cô em xóm đạo hôm nào. Nhớ lắm, đã thành chuyện tình của họ, ai cũng biết. Có một Chuyện Tình Trong Xóm Đạo giữa thơ và nhạc, làm đắm đuối mê mệt một thuở một thời những cặp tình nhân. Cuộc tình của họ đang đẹp như mơ thì giặc ở đâu tràn tới. Vội vàng chia tay, không nói được gì để hẹn nhau. Chỉ một bài thơ của Kiên Giang, đã có tới hai ca khúc. Một của Huỳnh Anh và một của Anh Bằng.
"Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che khuất chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường"
Đây là chuyện tình có thật của tác giả với một nữ sinh cùng lớp, một chuyện tình của một chàng trai ngoại đạo với một cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, trong sáng.
"Lần kia,anh ghiền nghe tiếng chuông
Thờ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về"
Vừa là thơ, vừa là nhạc. Một bản tình ca bất hủ, một Love Story mang màu sắc dân dã đồng bằng sông nước Cửu Long. Ở đấy là những nhà vườn và có cả những xóm đạo, nhà thờ Giồng Trôm, Cái Bè, Cù Lao Giêng, Cần Xây, Mặc Bắc, Cà Ràng...
... Giã từ áo tím, người yêu cũ
Giã cả lầu chuông, nóc giáo đường
...Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh vẫn giữ lầu chuông, gác khánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ"
...Cổng trường đối diện, ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhật em xem lễ..
(Kiên Giang, Hoa Trắng thôi cài lên áo tím),1957.
Nhiều khi ngẫm nghĩ, tôi tự hỏi mà không có câu trả lời, tại sao đất nước ta, cứ miệt mài khói lửa? Những chàng trai cứ xếp bút nghiên theo việc đao cung, ra đi? Và tại sao những cô con gái cứ mãi mòn mỏi đợi chờ, mong ngóng, có nhiều khi trở thành chinh phụ, như trong truyền kỳ lịch sử Hòn Vọng Phu? Phải chăng, chiến tranh đã biến thành hằng số đeo đẳng số phận người phụ nữ Việt Nam?
Cũng thế, chiến tranh, ly loạn mà chia lìa đôi ngả. Ở đây, cái kết thương đau hơn, Phạm Duy đã bắt gặp một đồng cảm rất sâu về nỗi buồn chiến tranh của chàng trai Phạm Văn Bình khi trở về xóm đạo, nơi người con gái ngày xưa ước hẹn, nay đã tay bế tay bồng, giữa cành tháp chuông nhà thờ xóm đạo La Vang, Quảng Trị đổ nát mùa Hè đỏ lửa năm 1972. Không còn xóm đạo La Vang, tháp chuông, giáo đường hoang vắng, cỏ mọc tràn lan. Chúa đã bỏ loài người. Thánh giá nằm chơ vơ trên tháp chuông. Hỏi em xưa bây giờ ở mô? Năm năm trời biền biệt. Bèo dạt. Hoa trôi. Tiếng chuông đã tắt ngấm từ bao giờ.
"Năm năm rồi không gặp
Cỏ hoang nơi giáo đường
Chúa buồn trên thánh giá
Mưa nhạt nhoà, mưa qua
Năm năm rồi ly biệt
Đường xưa chưa lối về
Trong đìu hiu gió cuốn
Nằm chơ vơ gác chuông
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế, tay bồng
Chiều hắt hiu xóm đạo
Hồi chuông giáo đường buông"
(thơ. Phạm Văn Bình. Nhạc Phạm Duy, 1961)
Dòng nhạc tiền chiến, đến đây, đã lên tới cao trào. Không còn e ấp, ngập ngừng nữa.
Xin hãy dừng chân ở đây, để nghe nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn (1926-2004), để có những hình ảnh lóng lánh nhất về cảnh ráng chiều Hội An, những buổi chiều rất chiều vàng, rất nhiều thiều quang của xứ Quàng. Không thể tìm đâu ra một buổi chiều, đúng nghĩa của một buổi chiều, như buổi chiều của Lê Trọng Nguyễn.
Đó là hình ảnh giáo đường, bóng tháp và người yêu rõ nét hơn. Đẹp như tranh Van Goh. Một lần, người yêu ơi, ta gục đầu bên nhau, mắt ướt nhoà. Có lẽ là ta xa nhau.
Tiếng chuông giáo đường ở đây vô cùng âm u, vô cùng thiêng thánh. Như một lời thề, một chứng giám cho một rời xa biền biệt.
"Vàng rơi bên gót chân son mềm
Trên lối đi về xứ hoa duyên
Tà áo trinh nguyên tung bay nụ cười thân ái
Hồi chuông thiêng sức loang mây trời
Rung nắng Xuân chiều xuống chơi vơi
Lời hát vang đưa cô liêu bên giáo đường yêu
"Nguyện cầu gục đầu bên hoa mắt ướt nhoà
Hồn anh buồn trống duyên anh còn sống đời bềnh bồng
Nguyện cầu gục đầu bên nhau mắt ráo sầu
Xa dần đen tối tìm màu Xuân mới trên làn môi"
(Chiều Bên Giáo Đường. Lê Trọng Nguyễn)
Theo nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển, người đồng hương đồng khói với Lê Trọng Nguyễn, cả hai ca khúc Chiều Bên Giáo Đường và Nắng Chiều đều được viết trong khung cảnh nhà thờ Hội An. Nét nhạc độc đáo của ông là vận dụng một thang âm ngũ cung Quảng Nam kết hợp với các điệu thức mới của âm nhạc Tây phương như Rumba, Bolero,Slow, Calypso.Ở đây, ông đã đẩy các điệu thức mới ấy chậm lại một chút, để giảm bớt chất rộn ràng, sôi nổi. Nhờ thế, nghe đậm đà hơn, gợi nhớ hơn, sang trọng hơn và tinh tế hơn. Đó chính là phong cách rất Quảng Nam của riêng Lê Trọng Nguyễn, không thể lẫn lộn với một ai được. Nghe Kim Tước, Hà Thanh hoặc Lệ Thanh cất lên những ca khúc này, tôi có cảm tưởng như đang lạc vào một nơi chốn rất riêng của thánh ca nơi giáo đường.
6.
Đi vào thế giới thi ca, càng thấy không bến bờ, một chủ đề bất tận.
Cũng là một đêm Giáng Sinh. Nhưng hai người yêu nhau phải chia tay đúng vào đêm Chúa giáng trần. Đêm Giáng sinh Hà Nội bỗng trở thành kỷ niệm khó phai mờ của nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967). Anh chắp tay khấn nguyện thầm, xin Chúa cho vọng lại một hồi âm.
"khi mắt em rung bóng giáo đường
Chiều mưa trên mái tóc tha hương
Anh đi trong gió và anh nguyện
Tìm những hồn đau lạc biển sương
Chiều vọng xa quê tuyệt bóng hình
Thương em nhàu nát áo đồng trinh
Nghẹn ngào lệ thắm lời kinh nguyện
Không một hồi chuông đêm Giáng Sinh
Anh chắp đôi tay khấn nguyện thầm
Ngàn sau vọng lại một hồi âm
Bài kinh tín mộ từ nguyên thuỷ
Còn ngát mùi hoa đượm khói trầm"
(Hồi chuông giáo đường. Đường vào tình sử. 1961)
Kỷ niệm của nhà thơ Quách Thoại (1930-1957) là một kỷ niệm thương đau, rướm máu. Xa nhau, mất nhau, trong tuyệt vọng. Ôi, người yêu Như Băng.
"ta giật mình, bóng tối vẫn mịt mù
Trăng nhợt nhạt và hồn ta thấy lạnh
Lời tụng niệm xa đưa từ cô quạnh
Ta bước về hồn vắng tiếng kinh em
Ta bước về hồn vắng tiếng chuông đêm
Lệ nóng chảy, lòng đau kêu cửa Chúa
Như Băng, Như Băng vì đâu mà lệ ứa
Ta khóc than, nghĩ tủi chuyện đời ta"
Như Băng trường tình, Quách Thoại
(Giữa lòng cuộc đời. 1957)
Ta cùng ngậm ngùi với tác giả Từ Ly trong tiếng chuông chiều biệt ly:
"mây trôi man mác trông chờ
Từng hồi chuông vọng điểm giờ biệt ly
Một lần từ tạ ra đi
Là thôi vĩnh viễn mong chi ngày về"
(Từ Linh,1958)
Chuyện chúng mình của Nhất Tuấn nhớ lại một vùng trời đầy kỷ niệm dấu yêu nơi làng quê xứ đạo xưa. Tìm đâu, hình bóng xứ đạo làng quê ta, đã một thời chúng mình cùng nhau đi lễ.
"ôi, còn đâu khung trời quê Phúc Nhạc
Xóm đạo nghèo với những tháp chuông cao
Hàng tre xanh lả ngọn dưới trời cao
Kinh tối đọc rì rầm bên mái rạ"
(Nhất Tuấn. Chuyện chúng mình, 1969.)
Với nhà thơ Hồ Dzếnh (1916-1991) là những chuỗi ngày đầy thân ái. Họ yêu nhau, hẹn hò nhau cùng đi lễ. Chàng yêu cô gái bên đạo ngoan nguỳ, khác xa những bóng dáng ngoài đời.
- "em ạ, quê ta tháp giáo đường
Sáng chiều vẫn vọng những hồi chuông
Ai đi xem lễ, tôi theo với
Gió đạo, lời kinh toả vấn vương
Con gái nhà chung xinh đẹp lạ
Đẹp hơn con gái phố phường bên
Chủ nhật tự nhiên thành buổi hẹn
Đêm Giáng Sinh này em ở đâu"
(Hoa Mẫu Đơn. Hồ Dzếnh)
Di cư 1954. Xứ đạo, tháp chuông, nhà thờ. Mọc lên như bát úp, san sát khắp miền Nam. Bẵng đi một thời gian, lâu thật lâu. Nhưng tôi không thể nào quên những ngày di cư 1954. Lúc ấy, tôi đã vừa lớn, vừa đủ trưởng thành để nhận ra nỗi đau chia cắt. Từng đoàn người lũ lượt bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xuống tàu há mồm, đi máy bay, tàu hoả hoặc bằng những phương tiện tự túc để vào Nam. Những người đi trễ, vì bị Việt Minh đón đường hăm doạ, dụ dỗ thì vượt thoát bằng bè. Vâng, bè nhé các bạn, tức là những thanh tre ghép lại, căng cái buồm lên canh hướng gió, chống, chèo bơi để vượt biển. Tổng cộng hơn một triệu người đã đến được bến bờ tự do, trong thời gian chưa đến một năm.
Chỉ trừ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là không có những vùng tái định cư cho dân tỵ nạn cộng sản. Còn từ Đà Nẵng trở vào thì có cả. Này, Đà Nẵng, Tuy Hoà, Bình Định, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Phan Rang, Đà Lạt. Xuống đồng bằng thì có Long Khánh, Hố Nai, Biên Hoà, Vũng Tàu. Trở ngược lên Sài gòn thì có Bình Đông, Gò Vấp, Ngã Ba Ông Tạ, Hóc Môn. Xuống miền Tây, có Mỹ Tho, Cần Thơ, Rạch Giá, Kiên Giang, Cái Sắn. Những xóm đạo hình thành. Tiếng chuông nhà thờ ngân vang ngày hai lần, lẫn trong tiếng kinh cầu đã trở thành hình ảnh thân thương của bà cụ chít khăn mỏ quạ thành kính đến nhà thờ. Bắc kỳ chín nút là thế. Họ đã biến nước mặn đồng chua thành những khu trù phú, biến đồng hoang thành những thôn làng mang đậm nét quê hương. Họ đã cùng dân miền Nam hy sinh, cống hiến máu xương để xây dựng một miền Nam trù phú, nhân bản, tự do.(5)Và mới đây, tình cờ lang thang trên mạng, tôi đọc được mấy dòng tản mạn của người viết. Từng mẩu, từng miếng một. Về tiếng chuông giữa trưa, có tên là Đan Viện Thiên An - Nơi Bình An Của Trời:" Giữa trưa, chuông nhà nguyện Đan Viện Thiên An ngân lên từng hồi, ngân như tiếng thở dài của đất, của rừng, của những linh hồn mỏi mệt... Tiếng chuông không gấp, không thúc giục. Nó ngân trong lặng lẽ, rơi xuống từng kẽ lá thông già, vào những phiến đá rêu phong, rơi trên tượng Chúa đã từng bị đập phá, và rơi vào lòng gã...Gã chỉ thấy ở đây - nơi tiếng chuông 12 giờ trưa vọng lên từ lòng núi - có một nỗi cô đơn đẹp đến nao lòng..."
Lại là chiến tranh, tàn phá, chia lìa. Và để khép lại bài viết lan man này, tôi không thể nào không nhắc đến tiếng chuông trầm thống vang lên, lẫn trong lời nguyện cầu giữa mùa Hè đỏ lửa 1972, với tiếng hát tenor của ca sĩ Elvis Phương:
"Có những lúc tiếng chuông đêm đêm vọng về rừng sâu
Rưng rưng tôi chắp tay, nghe hồn khóc đến rướm máu
Thượng đế hỡi, có thấu cho Việt Nam này..."
(Đêm Nguyện Cầu. Lê Minh Bằng)
Và chúng ta cùng nguyện một lời kinh chung với nhạc sĩ Phạm Duy, trong tiếng chuông sầu biệt ly, tiếng chuông của một đời người, tìm nhau. Vâng, chỉ có trong lời kinh nguyện cầu, người ta mới tìm thấy nhau.
"Tìm nhau trong hoa nở
Tìm nhau trong cơn gió
Tìm nhau trong đêm khô hay mưa lũ...
Tìm nhau trong hơi thở của cuộc đời, người ơi
Gặp nhau, hãy nép hơi im trong hương mới
Gặp nhau trong nhân tình đầy bác ái, ơi người
Gặp nhau trong kinh cầu một hồi chuông..."
Lại nhớ mấy năm dịch tễ Covid 2019- 2021 tràn lan. Cả thế giới phủ một màu tang trắng. Nhà thờ đóng cửa. Vắng bặt những tiếng chuông. Vắng cả người đi lễ, cầu kinh. Bỗng nhớ đến nôn nao tiếng chuông giáo đường thuở nào, chưa xa lắm. "... Từ những năm 1940 đến nay, Thiên An không chỉ là nơi trú ẩn của linh hồn ẩn tu, mà còn là địa chỉ tâm linh của biết bao người dân xứ Huế. Trong từng nhịp chuông, từng bậc đá rêu phong, người ta có thể nghe thoáng hơi thở Kito giáo hoà cùng nhịp đập dân tộc - rao giảng, không áp đặt, chỉ đơn thuần hiện diện, như một đốm lửa âm ỉ trong lòng núi...Ở đó, những người mặc áo dòng màu nâu sẫm vẫn tiếp tục gieo trồng, làm bánh, chép sách, mở cửa đón người hành hương. Họ vẫn cất lên những bài kinh Latinh, vẫn giữ giờ chầu theo truyền thống hơn 1500 năm của Thánh Biển Đức. Và họ vẫn chọn sống như" những người bị lãng quên" giữa một thế giới đầy ồn ào. Biểu tượng cho một thứ Kyto giáo cắm rễ vào lòng dân tộc Việt. Không phải bằng gươm giáo, mà bằng cày cấy và lời cầu nguyện..."(6)
Chuyện chuông bên ta nhiều vô kể. Còn bên Mỹ, bên Tây cũng chẳng hiếm. Nhà văn Mỹ Ernest Hemingway (1899-1961) có For Whom The Bell Tolls - Chuông Gọi Hồn Ai, tiểu thuyết được xuất bản năm 1940. Huỳnh Phan Anh dịch. Tổ Hợp Gió xuất bản 1971. Giải thưởng Nobel văn chương năm 1954.(7)
Ngay giữa Sài gòn, thật diệu kỳ, năm 1958, 1961 và 1967 đã hiện diện một ngôi giáo đường có cái tên gọi rất bình dân: nhà thờ Đa Minh - Ba Chuông. Đấy là một giáo xứ của đồng bào di cư từ miền Bắc vào năm 1954. Họ vẫn chưa quên gốc gác, Hải Dương, quê hương các thánh Tử Đạo. Dù đã qua nhiều biến cố, hình dáng nhà thờ đã hoàn toàn thay đổi, nhưng cái tên Đa Minh- Ba Chuông, một dấu ấn lịch sử vẫn tồn tại bền vững.
Viết đến dòng chữ này, kỳ diệu thay, trên mạng hiện ra rờ rỡ câu chuyện "Tiếng Chuông Ở Nagasaki Đêm Giáng Sinh" không bao giờ tắt, dù đó là bom nguyên tử! Tác giả là một chàng thanh niên Nhật sống sót sau trận đánh bom thảm khốc 1945...(8)
Và cuối cùng là "vụ rung chuông ở nhà thờ chính toà Hà Nội, Noel 1958". Bài báo viết: "Vào lễ Noel 1958, linh mục Giuse Trịnh Văn Căn ra lệnh kéo chuông nhà thờ lớn Hà Nội trong vòng một tiếng đồng hồ để kêu gọi giáo dân đến tiếp cứu nhà thờ trước nnoms người tự xưng là "quần chúng" kéo đến giành quyền trang trí (chăng cờ, đèn, điện) nhà thờ trong dịp lễ Giáng Sinh. Nguyên do là vì chính quyền Hà Nội đã cho một đám đông đến nhà thờ này treo đèn hoa trang trí và buộc nhà thờ phải thanh toán một số tiền quá cao. Hậu quả là, Cộng sản Việt Nam vu cáo cho linh mục chính xứ Trịnh Văn Căn và linh mục đại diện tổng giáo phận Hà Nội là Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh vào tội phá rối trị an. Cha Căn 12 tháng tù treo và cha Vinh bị bắt đi tù và chết rũ tù ở trại giam Cổng Trời từ 1958 đến 1972."(9)
Chú thích:
(1) Thanh Niên 269/2011.
(2) FB @yetkieu.
(3) Theo nghiên cứu của nhà gia phả học, Cự Vũ/ Vũ Hiêp. Đại Học Văn Khoa Sài gòn.
- Các Trấn Tổng Xã Danh Bị Lãm.
-Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời. 1999.
(4) Chuyện Đất và Người Làng Thọ. Lê Đình Bảng. Sài gòn, 2005.
(5) FB @Ánh sáng miền Nam.
(6) FB @Gã Khờ.Ng.q.C.
(7) Ngoài ra, còn có các tác phẩm: A Farewell To Arms- Giã Từ Vũ Khí (1929), The Old Man And The Sea - Ông Già và Biển Cả (1952)...
(8) Tên Ông là Takashi và vụ nổ bom đã cướp đi sinh mạng của 70.000 người, tức 1/3 dân số Nagasaki.
(9) Diễn Đàn Giáo Dân số 204 (11.2018).
【Francis Assisi Lê Đình Bảng】
NGUỒN:
