"Thuật tích việc đạo nước Nam" của Lm.Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874)- Tác giả Bùi Công Thuấn

Lan Mary

 



“THUẬT TÍCH VIỆC ĐẠO NƯỚC NAM”

Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874)

***


Giới thiệu:

Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874) sinh tại Làng Qui Hoà (ngày nay là thôn Qui Thuận, xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định). Năm Ất Dậu (1825), ông dự khoa thi Hương tại Thừa Thiên, vào đến Tam trường. Khoảng giữa thập niên 1840, ông được giới thiệu đến Giám mục Cuénot Thể làm giáo sư Hán văn tại Chủng viên Pénang (thuộc Malaysia). Ở đây, ông trở thành chủng sinh. Sau 7 năm tu học, ông được phong chức Phó tế và trở về quê. Năm 1856, Giám mục Cuénot Thể đã truyền chức linh mục cho ông tại Tòa Giám mục Gò Thị và bổ nhiệm ông làm việc tại Tư Ngãi (Tư Nghĩa, Quảng Ngãi ngày nay).

Thời này,Vua Tự Đức cấm đạo gắt gao. Cuối năm 1861, ông bị triều đình bắt giữ ở Nga Mân (Quảng Ngãi), rồi bị giải về Huế. Ở Huế, ông bị Thượng thư Bộ Binh Lâm Duy Hiệp cùng Hiệp biện Phan Thanh Giản tra vấn về đạo Công giáo và về việc quân Pháp đánh phá Đại Nam. Ông đã viết 6 bản điều trần trình bày tâm huyết của mình. Ông được triều đình sai tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương nghị với Pháp. Sau hòa nghị năm 1862, ông được triều đình cho về quê. Năm 1865, Giám mục Eugène Charbonnier Trí bổ nhiệm ông làm cha sở Nước Nhỉ (nay thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định).

Tất cả những chi tiết về cuộc đời mình, Lm Đặng Đức Tuấn đều kể lại trong Thuật tích việc Đạo nước Nam. Bản trường ca này dài 1182 câu lục bát, có xen lẫn câu song thất và các bài thơ thất ngôn. Bản in 1911 là bản quốc ngữ, có lẽ là bản chuyển ngữ của Thuật tích việc nước Nam được viết bằng chữ Nôm do Vũ Thu Hà và Nguyễn Ngọc Quỳnh (Viện nghiên cứu tôn giáo giới thiệu)[1].Trong cuốn Cuộc đời và tác phẩm của Linh mục Đặng Đức Tuấn [2], Nguyễn Văn Thoa không nói gì đến bản quốc ngữ Thuật tích việc Đạo nước Nam in năm 1911 này.


Điểm đặc sắc của Thuật tích việc Đạo nước Nam là ghi lại quá trình đạo Công giáo truyền vào nước Nam, đặc biệt là thời vua Tự Đức cấm đạo bằng chỉ dụ Phân sáp khốc liệt (1861). Lm Đặng Đức Tuấn bị triều đình bắt giam, tra khảo. Bằng nhận thức sâu sắc về lẽ đạo và lòng yêu nước, ông thuyết phục được Thượng thư Bộ Binh Lâm Duy Hiệp cùng Hiệp biện Phan Thanh Giản, sau đó được vua Tự Đức cử ông đi theo phái đoàn của Phan Thanh Giản vào Gia định thương thuyết hòa ước 1862. Những bản điều trần của ông có thể đã góp phần vào việc vua Tự Đức giảm nhẹ việc cấm đạo.

Thuật tích việc Đạo nước Nam cũng ghi lại việc phái đoàn nhà Nguyễn (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp) từ Huế vào Gia định ký kết hòa ước 1862 với Pháp. Cảnh đón tiếp hòa nghị được ghi nhận khá sinh động. Tính chất “nhật ký” tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Trong khi hòa nghị, Hai ông Phan, Lâm đều hỏi ý kiến Đặng Đức Tuấn về những yêu sách của Pháp. Mặc dù có sự cảnh báo của Đặng Đức Tuấn song hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã nhượng bộ Pháp quá nhiều, khiến cho sau này Vua Tự Đức lên án hai ông là “tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời”.

Điều đáng khâm phục là sự dấn thân, thái độ thẳng thắn trung thực, sự hiểu thấu lẽ đạo và lòng yêu nước của Lm Đặng Đức Tuấn có sức cảm hóa nhà Nguyễn (vua Tự Đức) ngay cả trong tình hình cấm đạo khốc liệt (chỉ dụ Phân sáp toàn diện năm 1861).

Về văn chương, Thuật tích việc Đạo nước Nam thuộc văn chương bình dân, tuy vậy văn bản cũng có nhiều câu hay của văn chương bác học. Nghệ thuât kể truyện mạch lạc, tốc độ nhanh. Tác giả vừa kể vừa phân tích sự việc bằng thái độ khá khách quan, óc quan sát tinh tế, với tầm bao quát không gian, thời gian khá rộng. Tuy thuật lại nhiều chuyện đau buồn của thời cấm đạo song Lm Đặng Đức Tuấn luôn kiên định một lòng tin đầy lạc quan.

Văn bản Thuật tích việc Đạo nước Nam bằng chữ Quốc ngữ này so với ngày nay có nhiều chữ sai chính tả, và nhiều chữ đã cổ không còn dùng. Những chú thích của tác giả được ghi dưới mỗi trang. Những chú thích về chính tả để trong ngoặc vuông […] do BCT ghi bên cạnh câu thơ.

***
VĂN BẢN TÁC PHẨM

***

THUẬT TÍCH VIỆC ĐẠO NƯỚC NAM

Par Linh mục Khâm, Quý Hợi niên tạo

Édité par: Đinh Thái Sơn

Maison: Phát Toán - Sài gòn - Sèbtembre 1911.

Phân loại TVQG (NLV): X375

(National Library of Viet Nam)


1.Đạo thánh Chúa giảng truyền nam thổ

Lê hoàng trào vịnh bổ cữu niên

Thới bàng ngôi báu đạt yên,

Dằm nhạn một tiếng viễn biên không trần.

5.Nữa ngàn gặp hội phong vân,

Nước nhà thạnh trị muôn dân an hòa.

Các thầy nước Buttuca,

Vâng lịnh Tòa thánh trẩy qua đàng ngoài.

Giảng truyền đạo Chúa thiên thai,

10.Vén mây vẹt ngút phát gai tìm đàng.

Đội ơn Chúa cả thiên vàng,

Kiếm tìm chiên lạc mở mang đạo lành.

Làng An-trường trước đành thọ giáo,

Dẫu hết đà hướng đạo hồi tâm.

15.Từ xưa nẻo lặc đàng lầm, [lạc]

Điều răn tạc dạ phước âm ghi lòng.

Non cao biển thẳm mấy trùng,

Ngữa mầng yến sáng khắp trong bầu trời.[mừng]

An thạnh sấn sướt mọi nơi,

20.Rày còn bia tạc để đời hậu lai.

Có thơ rằng:

Bia tạc công dành để hậu lai,

Hoa-lang giảng đạo mở đàng ngoài.

Trời Nam tiếp thấy xông mây ngút,

Đất Bắc đè miền phát gốc gai.

25.Nơi lũng nay đà vâng lịnh Chúa,

Phàm trần có thuở tới thiên thai.

Núi sông còn đó công linh đó,

Ngãi Chúa ơn thầy dễ lợt phai [nghĩa]



Ơn thầy ngãi Chúa nào phai,

30.Lần hồi mở đạo trong ngoài khắp nơi.

Bắc Nam hai ngã một trời,

Nhiều nơi xiêu lạc lời nghe chánh chơn.

Hai trăm năm đã có hơn,

Thiệu-Thống kế vị Tây-sơn dấy loàn.

35.Cho hay thiên vận tuần hoàn,

Thạnh suy biến dị nguy an đổi dời.

Lê-thiệu-Thống tìm nơi cầu viện,[vua Lê Chiêu Thống]

Qua Thanh-trào đình kiết giá băng.

Tây-sơn mặc sức hung hăng,

40.Phân chia cõi đất chiếm ngăn ngôi trời.

Bụi bay khắp chốn đòi nơi,

Gío nghiên thế nước nhặc hơi gian hùng,

Thới-đức Cảnh-thạnh Quang-trung,[Triều đại Tây Sơn: Thái Đức, Cảnh Thịnh, Quang Trung]

Hai trăm sông núi ngàn trùng phong ba.

45.Bắc Nam lừng lẩy binh qua,

Xây nên đảng ngụy đốt tòa vương công,[Nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là đảng ngụy]

Đàng ngoài nhẩn đến đàng trong,

Lê gia thành quách quạnh không tro tàn.[Lê gia: Triều nhà Lê]

Nguyễn chúa tị loạn giang quang,

50.Đã qua Phú-quất lại hoàn Trấn-tiên [Phú quốc, Hà Tiên]

Giáo nhơn thấy ưu phiền khắp xứ,

Đời loạn ly ai giữ đoàn chiên?

Cảnh-hưng hoàn hiệu ngươn niên,[Cảnh Hưng-Lê Hiển Tông 1740-1787]

Nước Langsa mới nối truyền giảng rao.

55.Không cùng đất rộng trời cao,

Ơn Chúa dạ tạc lẽ nào lòng quê.

Có thơ rằng:

Ơn trên dạ tạc dám lòng quên,

Nối tiếp khai quang đạo vững bề.

Nhựt thựt một hồi đâu mất sáng,

60.Đạo truyền muôn kiếp có quyền trên.

Dầu cho thì biến Lê ngang dọc,

Há để trời Nam ngụy đắp nền.

Tiêu tán sự đời đời khiến vậy,

Đạo hằng có Chúa dựng gầy nên.

65.Đạo truyền có Chúa gầy nên,

Langsa nối giảng khắp miền Việt-nam.

Bá-đa-Lộc quyền làm giám mục,[Pierre Pigneau de Behaine]

Chăn chiên lành dưỡng dục khi song.

Vốn người dòng dõi vương công,

70.Lánh mình thế phước quyết lòng thiên hương.

Qua Nam-việt một phương vội vội,

Đèn thiêng liêng cõi tối hằng chong.

Gặp đời thảo mụi long đong,

Mình làm cột đá giữa dòng muôn lang.

75.Ra tay tá quấc an bang,

Vực phò Nguyễn chúa đam sang Xiêm thành.

Vua tôi thầy tớ xuất hành,[Giám mục Bá Đa Lộc]

Mấy trùng non nước tất thành kiêm lang.

Nguyễn chúa ở lại Xiêm bang,

80.Đức thầy chịu mạng lại hoàng Tây-dương.[hoàn]

Bôn lo khôi phục cố cương,

Một phen toan tính một trường phân ly.

Đông cung niên thiếu ra đi,[1]

Thát cô gánh nặng kinh quyền ngãi thông.

85.Trèo non vượt biển mấy trùng,

Một lòng ái kỷ một lòng ái nhơn.

Về cố quấc thiệt hơn bày tỏ,

Xin viện binh giúp bổ Nguyễn gia

Chí lâm cả sáng danh Cha,

90.Giữa dân ngoại đạo mở tòa hội công.

Đam sang binh thủy thuyền đồng,

Quyết trừ đảng dữ dẹp xong mối loàn,

Lại từ kinh quấc Phalang,

Nghiêm bày đội ngũ sửa sang thành trì.

____________

[1] Đông cung thọ lịnh Nguyễn Chúa cùng đức thầy Bá Đa Lộc vãng Tây dương quấc

BCT:Đông cung: Hoàng tử Cảnh, con Nguyễn Ánh, đi theo Bá Đa Lộc sang Pháp 1784



(Trang 4)

95.Vua tôi sum hiệp một khi,

Phong vân hội mở thuần thì thới lai.

Quyền thái phó khâm sai đạt mạng,

Điều chiến binh thủy bộ viện binh.

Việc vua việc Chúa trên mình,

100.Hai vai gánh nặng một tình ái ưu.

Máy binh đồ trận cơ mưu,

Kinh luân vương tá phong lưu vương hào,

Đang cơn khói lửa mưa đào,

Vững trồng cột đá, chẳng xao lòng vàng.

105.Ghe phen tân khổ gian nan,

Đã xua đảng cáo lại hoàn an trư.

Cõi Nam đất cũ an cư,

Trước thâu Gia Định, sau trừ Quang Trung.

Hùng binh hổ tướng rùng rùng,

110.Lên trận Thị -nội vào cung bàn xà.

Tây-sơn đảng tặc lánh xa,

Quy Nhơn trở lại Nam đà vẹn thâu.

Đến bến-đá đêm hầu giờ tí,

Một trận nầy binh ngụy nát tan.[quân Tây Sơn]

115.Nực cười thiểu truyện lớn gan,

Lấy ngao lường biển bẻ cang chống trời.

Đàng ngoài cõi đất vơi vơi,

Một phen con đỏ còn nơi nịch thần.

Lòng giúp nước cứu dân mệt mỏi,

120.Việc giảng truyền mọi nỗi chưa an.

Nào hay biến cuộc thương tàn,

Cõi trần từ tạ thiên đàng nghỉ ngơi.[Bá Đa Lộc mất 1799]

Đức vua thương tiếc rụng rời,

Mất tay tả hữu mất người phúc tâm.

125.Núi Kỳ-sơn ngàn trùng chất thảm,

Thành Quy-nhơn ám dặp phong sương.

Ngừa than hai chữ vô thường (1)

Ngàn năm ly biệt một trường bi ai.

(Trang 5 bản in:)

Cám công đất rộng trời dài,

130.Ngự bày điếu tế ngự bày sắc phong.

Về Gia-định đàng trong an táng,

Lập lăng mồ biêu rạng công cao [2]

Đông Cung lụy nhỏ thâm bàu,

Tống chung một thuở ngậm sầu ba thu.

135.Ngùi ngùi cám kiểng tan du,

Khách tinh lờ lệch gió thu lạnh lùng.

Sử xanh ghi chép tinh trung,

Đá bia còn đó cột đồng còn đây.

______

[2] Nam Việt quấc vương điếu tế 5 chức đạo sắc phong tữ đạo kiêm nhựt thượng tồn Giám mực Bá-đa-lộc lăng táng tại Gia-định cụ hữu sắc thạch minh công kiêm nhựt thượng tồn.



Có thơ rằng:

Bia tạc lăng mồ để nhớ công,

140.Sử xanh ghi chép chữ tinh trung.

Hết lòng kính Chúa chăn chiên lạc,

Trải dạ phò vua đỡ cột đồng,

Mũ gậy sáng ngời biêu đạo thánh,

Ngọn cờ mây tỏa sắc vương công.

145.Ngãi nhơn còn đó giang sơn đó.

Đất rộng trời cao dạ dễ cùng.



Trời cao đất rộng không cùng,

Giang sơn còn đó tấm lòng còn đây.

Việc tống táng Đức thầy đã đoạn,[Đức Thầy: Giám mục Bá Đa Lộc]

150.Lịnh vua ra dẹp loạn ngoài trong.

Tùng chinh Minh, Tính, Phụng, Long,

Cánh vây lừng lẩy chín trùng cao bay.

Trừ giặc Quảng trong tay một mối,

Ra đàng ngoài đánh tội cứu dân.

155.Gió oai thổi bóng ẻo hy,

Tây-sơn bặt dấu Bắc thì soán ngôi.

Lũ ngụy đảng nảy chồi nứt mộng

Rút đòng khai chẳng động tất binh

(trang 6 bản in:)

Mở nền hao hạ thinh thinh,

160.An dân dưới chiếu tảo trình trở quân.

Về đô kinh quấc Phú-xuân,[Gia Long lên ngôi 1802]

Trên an đế nghiệp dưới mừng thới lai.

Muôn dân vui đặng nghỉ vai,

Phủ trong một mối sử ngoài bốn phương.

165.Vua cám thương công ơn tái tạo,

Chỉ truyền cho giảng đạo mọi nơi.

Lang-sa Nam-việt hai trời,

Một lòng hòa hảo không lời cấm ngắn.

Thì lòng hai chữ tải căng,

170.Các thầy qua lại đạo hằng giảng khuyên.

Trải đời Giám mục tiếp quyền,

Dưới thì Linh mục chức quyền phân tư.

Khắp miền lạc nghiệp an cư, [5]

Dưới tôn vương pháp trên thờ Chúa Cha.

175.Thái bình một khúc cao ca,

Nhơn dân chuyên quản nước nhà an ninh.

Có thơ rằng:

Muôn dân chuyên quản nước an ninh,

Đời chốn vui ca khúc thái bình,

Bờ cõi vắng tăm hơi khói lửa,

180.Biển sông bạt tích giọng nghê kình.

Ơn vua mưa rưới nhuần trăm họ,

Đạo Chúa sáng soi tĩnh chúng sanh,

No ấm phĩ lòng mừng vận trị,

Muôn dân chuyên quản nước anh ninh.



185.Dân chuyên quản nước an ninh,

Toại bề nhạn thích phỉ tình thì cư.

Đinh, Lê, Trần, Lý đến giờ,

Thới hòa một thấy xa thơ ba đồng.

Năm Minh-mạng cửu trùng kế vị [6][Vua Minh Mạng 1821]

190.Đời thái bình tức chỉ cang qua

______________

[5] Đàng trong Giám mục Gioang, Giám mục Từ

[6] Cao hoàng tại vị thập bát niên băng

(trang 7 bản in:)



An nhàn khắp cõi gần xa,

Biển sông trong nước tuyết hoa rực ngời.

Kính vua thờ Chúa mọi nơi,

Vui vầy nước trị vẽ vời đàng ngay.

195.Giảng rao đạo Chúa cao dày,

Giãi dịch kinh sách vẽ bày khôn ngoan.

Nước nhà càng thạnh giàu sang,

Ngõa nguê tứ thú an nhàn tứ dân.

200.Máy theo tạo hóa xây vần,

Không cùng ý nhiệm không phân lẽ mầu.

Dang-sơn, Cổ-lão cơ cầu,

Kiện nhau giải hạng tranh nhau đất làng.

Dang-sơn có đạo vẹn toàn,

205.Cổ-lão không đạo quyết toan mưu thù.

Bỡi lòng giận ghét phao vu,

Trước thưa phủ huyện sau vô pháp đường.

Rằng: đạo ỉ thế Tây-dương,

Phan kinh đạo trưởng mối dường so đo.

210.Cao minh chậu úp không dò,

Việc đầu thì nhỏ sau to bằng trời.

Chỉ truyền cấm đạo mọi nơi,

Minh-mạng trị đời năm thứ mười ba.[1833]

Bắc nam khắp cõi gần xa,

215.Đạo đường triệc hạ các cha tử hình.[triệt]

Giáo nhơn ai chẳng thuận tình,

Trảm quyết lập tức lôi đình oan gia.

Ai mà thập tự bước qua

Ấy là thiên thiện chĩ qua về nhà.

220.Chúa cao xa mở khoa thi hội,

Bao nhiêu người yếu đuối rớt đi.

Bạc vàng lộn lạo thao chì,

Một phen vào lửa thử thì thấy pha.[lửa thử vàng]

Chúa dùng sự khó thử ta,

225.Gian nan dưới thế nghiệp hoa trên trời.

Hội này trảm quyết nhiều người,

Từ trong đất Huế đến nơi Bắc-thành.

(trang 8 bản in:)

Những hàng đạo đức thinh danh,

Những hàng chức sắc quân binh dân thường.

230.Tử hình nhiều cách oan ươn,

Quyết lòng liều sống đền ơn tạo thành.

Có thơ rằng:

Khoa trời mở hội rộng thanh thanh,

Liều sống đền ơn Chúa tạo thành,

Mũi bạc bay qua miền tạm thế,

235.Cờ điều thẳng chỉ cõi trường sanh,

Hồn thiêng đã đặng nơi cung thánh,

Nhỏ máu còn deo giống đạo lành,

Rạng tuyết tôi con cơn bãng đãng,

Muôn đời hưởng phước lại thơm danh.



240.Muôn đời hưởng phước thơm danh,

Đầy lòng vui vẻ phỉ tình cậy trông.

Tư, Đức vọng đàng trong Giám mục,

Chăn chiên đời khoản khúc gian nan.

Đang cơn bóng tối đầy tràng,

245.Giữ gìn đèn sáng khai quan lòng người.

Cúi mình ẩn yến khắp nơi,

Uống ăn cay đắng nghỉ ngơi hang hầm.

Ghe phen ở tối đi thầm,

250.Sói hùm chi quảng sơn lâm chi nài.[quản]

Ra tay phát gốc ruồng gai,

Vườn nho vung quén người tài dưỡng nuôi.[vun]

Trải năm nhen nhúm lần hồi,

Dịch in kinh sách trao dồi đoàn chiên.

255.Bỗn quấc Linh mục chức truyền,

Trong thì nghèo hiểm khắp miền giữ chăn.

Gởi nhiều người đến Pinăng,

Học lẽ thông thái để hằng giảng khuyên.

Lại chia gánh nặng đoàn chiên [ 7 ]

260.Gia-định một mối Thừa-thiên một quyền.

____________________

[ 7 ] Gia-định Giám-mục Ngải, Thừa-thiên Giám-mục Phan



(trang 9 bản in)

Trong ngoài đều có mối giềng,

Đạo tuy nghiêm cấm đèn thiêng sáng ngời.

Giáo nhơn ở các phương trời,

Thấy gương phước đức nhiều lời ũi an.

265.Bắc Nam ngàn dặm quan san,

Quyền trên có đủ ân ban cũng đồng.

Đâu đâu chức thánh hằng phong,

Toại lòng người thế ước mong phước trời.

Đang cơn ly tiết dưới đời,

270. Đã nhiều thánh cả về nơi thiên đàng.

Đội ơn Chúa cả cao quang,

Hằng hà phước trọng muôn vàng ơn riêng.[vàn]

Trải qua Thiệu-Trị thất niên, [1847]

Việc đời nghiêm nhặt việc thiêng đượm nhuần.

275.Tuy còn nhiều nỗi gian chuân

Đã từng bắt bớ đã từng lao đao.

Ghe phen biển dậy ba đào,

Chiếc thuyền Hội-thánh chẳng xao chẳng chìm.

Chữ rằng: Dĩ hỏa thí kim,[lấy lửa thử vàng]

280.Gian nan thử đức khảo kềm thử gan.

Chúa là cội rễ khôn ngoan,

Dùng phương tập luyện mở đàng thiêng liêng.

Đễ hằng gặp khó liên liên,

Ngọn roi khôn khéo cha hiền dạy răn.

285.Ai mà biết tội ăn năn,

Nay tuy tạm khó sau hằng nghỉ an.

Ai mà lòng đạo mơ màng,

Lao đao thân phận rõ ràng phải chăng.

Năm Tự-Đức vị đăng cữu ngũ, [Tự Đức: 1847-1883]

290.Đời thừa bình quy cũ giữ noi.

Trãi năm khoan giãng lần hồi,

Muôn dân khác thói một cơi đồng bào.

Lòng nhơn biển thẩm non cao,

Chẩn bần tha thuế rưới đào đòi phương.

295.Tuy rằng đạo cấm như thường,

Nhiều nơi thuyết lập đạo trường giãng rao.[thiết lập]

(trang 10 bản in:)

Nhiều người biết đạo sâu cao,

Lánh lui đàng lạc trở vào đàng ngay.

300.Nhiều người chẳng nệ đắng cay,

Bỏ phần sung sướng trông ngày thiên chung.

Đang khi thanh lặng biển sông,

Bỗng nghe tiếng súng đùng đùng vang tai.

Nhộn nhàn xao xác trong ngoài,

305.Người người thất vía ai ai kinh hoàng.

Ít ngày nghe chuyện rõ ràng,

Tây-dương tàu lại cửa Hàn ghẹo chơi.[Pháp đánh Cửa Hàn (Đà Nẵng) 1857]

Trước đà gây chuyện báo đời,

Rày còn tái lại trời ôi là trời [8].

______________________

[8 ]Thiệu-Trị thất niên (1847) dương tuyền lại nhứt thứ, Tự-Đức thập nhứt niên hựu lại nhứt thứ (1858).



310.Quan quân thôi đã hết hơi,

Kẻ bị cách chức người dời thê nô.

Kẻ thì chuyền của dọn nhà,

Sợ e giặc đến hóa ra tro tàn.

Kẻ súng vác người gươm mang,

315.Vâng lịnh tướng soái ở đàng phong sương.

Người thì tụ hội binh lương,

Tập rèn nghề võ quyết đường quan gia.

Vốn tâu xin [1 chữ mờ]…giao hòa

Xin cho giảng [1 chữ mờ]… cùng là hội thương.

320.Trào đình [2 chữ mờ]…tư lương

Sai binh thủ ngụ chiến trường gian nan.

Tàu tây nổi nóng làm ngang,

Ỹ nhiều thuốc đạn bắn càng quân quan.

Lên lập phố xá tại Hàn,[Hàn: Đà Nẵng 1858]

325.Ở vài năm đó chẳng toan ra gì.

Rũ nhau kéo hết mà đi,

Gia-định thẳng tới thành trì bắn tan.[1859]

Quân chết tính ước dư ngàn,

Súng giáo mất hết kho tàng còn chi.

330.Kéo lên chiếm cứ Nam-kỳ, [1862-1867]

Nghinh ngang xe ngựa li bì nguyệt hoa.

(trang 11 bản in:)

Khéo là tội báo oan gia,

Tính bề giục lợi lại pha việc lành.

Mượn câu giảng đạo làm danh,

335.Làm cho giáo hữu tan tành phen ni.

Làm cho Nhà nước sanh nghi,

Giam cầm đầu mục khinh khi đạo trời.

Làm cho xao xác trong đời,

Rúng động đất nước đổi dời gió trăng.

340.Núi Ải-vân khói giăng mấy khúc,

Cõi Đồng-nai gió thúc ngọn sầu!

Khôn cùng mọi nỗi lo âu,

Một mình ở giữa hai đầu bắn nhau.

Nghĩ suy mà sợ ngày sau,

345.Bá tòng đã đốn sậy lau nào chừa.

Ngạn rằng: quà quạ ăn đưa,

Bắt cò phơi nắng người xưa để lời.

Canh giam nghiêm nhặt khắp nơi,

Giữa đàng mang ách lạ đời oan ươn.

Có thơ rằng:

350.Giữa đàng mang ách ách khi không,

Ách tắc lạ đời ách quá xung.

Kẻ ở Tây-dương qua bắn súng,

Người bên Nam-việt lại mang gông.

Trời cao cổ vắng không kêu thấu [cổ vắn, nghĩa là cổ ngắn]

355.Lẽ vạy tình ngay phải xét công.

Đồng đạo nào hề đồng chước móc,

Khác trời khác biển khác Tây Đông.



Khác trời khác biển Tây Đông,

Vì giữ đạo Chúa cũng đồng vấn vương.

360.Mật truyền tỉnh phủ huyện đường

Đạo nhơn tận số tế tường báo khai.

Chẳng kỳ già trẻ gái trai,

Mỗi tháng đòi bắt điểm hoài lao đao.

Những đi lên xuống ra vào,

365.Cửa nhà bỏ đó hư hao kể gì.

(trang 12 bản in:)

Đến quan dạy bảo một khi,

Bay mà xuất giáo tao thì tha cho.

Đứa nào cứng cổ cương co,

Giày roi có đó nọc vồ có đây.

370.Bay đừng quen thói dại ngây,

Đạo Ta thì bỏ đạo Tây thì thờ.

Khá tua cải quá bây giờ,

Bước qua thập tự ngõ ngờ ơn tha.

Chẳng nghe tao cũng xẻ da,

375.Phước đâu chưa thấy tội đà nhuốt nha.[nhuốc nhơ]

Thảm thay con nít đờn bà,

Phen nầy mới biết huyện nha dường nào.

Quan quân roi vọt hùng hào,

Hết hồn hết vía hết tao hết mầy.

380.Ai ai đều phải đến đây,

Ít lâu rồi cũng xầm xầy như không.

Những người lòng vững cậy trông,

Bẩm quan đáp lẻ chưa cùng lời khai.

Roi to roi nhỏ đánh bừa,

385.Chẳng kiêng lưng cổ chẳng chừa đầu đuôi.

Đứa thì bắt cổ kéo lôi,

Kéo qua thập tự cho rồi phui pha.

Kẻ thì vồ nọc căng ra,

Đánh chơi vài chập kêu la vang trời.

390.Người thì lo sợ hết hơi,

Giả đó đau bịnh ma trơi lèn xèn.

Kể chi là phận sang hèn,

Ai chê mặc thích ai khen mặc tình.

Những người đạo đức linh chinh,

395.Lo sợ xác đất u minh phước trời.

Vào quan chưa hỏi một lời,

Đà lo xuất giáo ở đời cho an.

Nghĩ rằng liều mạng bước ngang,

Mai sau thỉnh thoản sẻ toan lo liều.

400.Tiếc người chịu cực đã nhiều,

Trải qua mấy trận chưa xiêu tất lòng.

(trang 13 bản in)

Lâu ngày chịu đựng không xong,

Uổng công xe cát lấp dòng thương lang.

Lửa nóng thì biết tuổi vàng,

405.Khá khen mấy kẻ vẹn toàn thĩ chung.

Nước loạn mới biết tôi trung,

Phong ba gặp trận anh hùng biêu danh.

Sấm truyền Chúa phán đinh ninh,

Húy tử thì lỗ xá sanh lại lời.

410.Sao nói cho hết chuyện đời,

Trải qua bão lụt rã rời cỏ cây.

Phen nẩy ta tác cha thầy,

Mấy ông tử đạo lúc nầy đã an [9]

_________________

[9] Gia-định cậu Minh, cậu Dỏng. Bình-thuận cậu Các, Bình-định cậu Chung. Quảng-nam cậu Lợi, Thới, Bộc. Quảng-binh cậu Chung các cậu tử đạo.

Cực người còn ở dương gian,

415.Chông gai chi xiết gian nan chi cùng.

Tuần do tập nỏa tứ tung,

Ông lo thế trốn ông dùng phương đi.

Ông thì giả bộ dị lỳ,

Phơi ngoài trời nắng đen sì nước da.

420.Ông thì giả dạng xấu xa,

Khăn vãi cũ rách áo dà vàng hoe.

Ông thì làm cách nhà quê,

Tóc râu xờ xạc nón cời lang thang.

Ông thì giả bộ giàu sang,

425.Ăn mặc coi khá dạo càng cũng xong.

Hoán danh cải tánh ròng ròng,

Giả dại qua ải thoát vòng gian nguy.

Ăn theo thuở ở theo thì,

Muốn chết vì Chúa nệ gì thế gian.

430.Nhưng phải giữ lời khôn ngoan,

Bắt bớ thành nọ trốn sang thành nầy.

Đã buồn lại phải làm khuây,

Vảy tróc cũng chịu vi trầy cũng cam.

(trang 14 bản in:)

Thảm thương mấy kẻ lưu giam,

435.Hồ Việc phụ tử Bắc Nam tớ thầy [Hồ Việt].

Vì ai nên cớ sự nầy?

Cá ao khát nước chim bầy lạc cây.

Hoa trời bát ngát mưa mây,

Biển đông để giận gió tây đưa sầu.

440.Xưa nay đạo cấm đã lâu,

Khoan thai vừa phải có đâu quá chừng?

Cực nầy chưa thấy chưa từng,

Tưởng âu tận thế đến tuần gian nan.

Đạo ta rày khó ở an,

445.Phần quan bắt bớ phần làng thắt eo.

Lạ chi lịnh ít lạc nhiều,

Mấy anh đảng cáo nương theo oai hùng.

Nghe hơi cậu xã chú trùm,

Cơn sợ chẳng khác trời gầm bên tai.

450.Nhiều tay văn vật trí tài,

Nhiều người lịch lãm thanh bai sang giàu.

Nhiều tay lý sự kỳ cào,

Thấy bà cậu mợ mày tao với đời.

Cầm kỳ thi họa ăn chơi,

455.Phủ phê mọi nỗi thảnh thơi mọi đường.

Cũng vì một khoản Tây-dương,

Hết ruộng hết đất hết lương hết tiền.

Những khai những điểm liền liền,

Mặt nào cũng chẳng ở yên đặng rày.

460.Quan bắt làng ăn no say,

Nong nia đã nát cối xay lại mòn.

Cực thay lại phải cúi lòn,

Gia-tô mềm mỏng ăn ngon quá chừng.

Tưởng là cực cũng có tầng,

465.Hay đâu còn lúc gian khuân quá đầu.

Có thân thì phải lo âu,

Tan thương dời đổi ưu sầu chứa chan.

Trác ra cho các xã làng,[trát]

Tựu nha lập tức đợi quan mật truyền.

(trang 15 bản in:)

470.Đạo rày phân sáp các miền, [Tháng năm 1861 vua Tự Đức ký lệnh phân sáp toàn diện]

Ngày đêm canh nhặt giữ liền chớ tha.

Làng nào để nó trốn ra,

Tội tình chẳng ít oan gia chẳng vừa.

Bình dân lớn nhỏ bắt bừa,

475.Dẫn ra khắt tự chẳng chừa gái trai [Khắc tự: khắc chữ]

Tội chi nào biết hỏi ai,

Xẻ mày xẻ mặt chịu chai chịu lỳ.

Cực cho các ả các dì,

Kẻ thì xin lãnh đứa thì đòi mua.

480.Lụt lội rồi cũng giơ cua,

Lá rụng về cội xôi chùa khó ăn.

Khắt rồi quan dạy răng răng,[khắc]

Nạp tờ giao lãnh vi bằng một khi.

Các làng cứ sổ lãng đi,

485.Giở nhà lập tức giẫn tùy liền tay.

Ngặc ngào trăm nổi đắng cay,[ngặt nghèo]

Mưa sa hàng lụy gió day mạch sầu.

Sáo ngã lại dập thuyền câu,

Ta đà liên lụy ai đâu yêu vì.

490.Điếm đàng bợm bải thiếu chi,

Miệng thăm cô bác lòng thì tham ô.

Hỏi thăm bồn chậu giẻ tô,

Ngựa ván ghế tủ gửi mô cho rồi.

Thôi thôi để lại cho tôi,

495.Của đáng vài chục giao hồi ít quan.

Thảo nào mèo lại ăn thang,

Kẻ rinh cái nọ người mang cái nầy.

Đến thăm đông đảo dậm dầy,

Ngoài miệng mếu máo trong tay quơ đồ.

500.Thảm thương anh chị cậu cô,

Ra thân thể ấy thuở mô tái hoàn?

Vườn đất để đó mặc làng,

Sau mà về đặng sẽ hoàn lại cho.

Ra đi không xiết nỗi lo,

505.Lúa thóc gửi lại đói no mặc trời.

(trang 16 sách in:)

Lang thang gánh xách nón tơi,

Giã từ cố cựu tới nơi giam cầm.

Ngập ngừng châu lụy lăm dăm,

Trí khôn đậu mắt tạng tâm chẳng còn.

510.Mịt mù mây phủ nước non,

Phân cha làng nọ sáp con làng nầy [Phân sáp]

Chông gai hào lũy phủ vây,

Gông cùm ngang dọc đó đây chật đày.

Ngậm ngùi trời đất cỏ cây,

515.Núi nam chất thảm biển tây giăng sầu.

Băng xăng mọi nỗi lo âu,

Kinh đọc thầm thỉ lòng đâu mơ màng.

Kẻ khóc lóc người than van,

Lạ lùng xứ sở ngở ngàn bà con. [Ngỡ ngàng]

520.Gẫm thân cũng đã thon von,

Dọn mình mà chết chẳng còn trông ra.

Khắc canh mõ ông thanh la,

Trộm cướp mấy án nhuốt nha thế nầy.[nhuốc nha]

Xin đi một phút một giây,

525.Có người vác gậy cầm cây theo hầu.

Chòi mòng phía trước phía sau,

Nhìn xem quan [chữ bị mờ]…nên đau đớn lòng.

Lấy ai an ủi bề trong,

Gẫm thân lá rụng giữa dòng nước qua.

530.Sáp lần trước cực đà bỏ mẹ, [Phân sáp]

Còn sáp phen nay phải bỏ cha.

Mới làm quen lớn tốn hao,

Ở ăn vừa dễ ra vào bớt nghi.

Lại phải bỏ đó mà đi,

535.Sáp qua làng khác sầu bi bàng hoàng.

Loi ngoi lạch ạch ngoài đàng,

Kẻ gánh trẻ nhỏ người mang đồ tề.

Cực sao mà cực gớm ghê,

Một mình tấc bạc tứ bề ăn chơi.

540.Ai ai là cũng người đời,

Bế tệ dường ấy đất trời hay chăng?

(tr.17 sách in:)

Nghĩ buồn lại biếng nói năng,

Làm thinh ngồi đó biết ăn đí gì.

Sầu bi lại dập sầu bi,

545.Thảm thương mấy kẽ ở vi qua đời.

Lâm cơn chích mác đòi nơi,

Không ai đọc sách không người rước cha.

Lẽ sống sống thì nhuốt nha,

Tay không đồng sức bụng thì xóp khô.

550.Đói thôi đầu gối hay bò,

Kẻ đi mần mướn người lo bán đồ.

Kẻ đi thăm cậu viếng cô,

Nhờ thép nhiều ít đói no đỡ lòng,

Dầu kẻ có một hai đồng,

555.Khai điểm lúc trước tốn ròng còn chi.

Phen này ai cũng chịu lỳ,

Bất qua thí chết còn gì nữa đâu.

Phân sáp thơ kỳ nhứt

Một phen vực thảm hóa công giâu,

Muỗi chết oan tình hỡi hỡi trâu.[Thành ngữ: trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết]

560.Vạn lý cù lao đâu há ví,

Một trường ly tiết dám hầu xin.

Gẫm thân xài xạc thân không cánh,

Tủi phận bỏ ngơ rắn đứt đầu.

Tưởng những cây trôi không trở lại,

565.Quê xưa thổn thức chạnh lòng âu.

Đầu tằm đã biết đổ trăm giâu,[Thành ngữ: trăm dâu đổ đầu tằm]

Lịnh dạy ra đi dẹp ruộng trâu,

Đêm ngủ nhờ làng canh lối cửa

Ngày đi mặc kẻ chạy theo hầu.

570.Cửa nhà cao lớn xem ngang mặt

Quan khách vào ra thảy cúi đầu.

Nội ngoại mấy trùng hào lũy chắc,

Mặc ai làm giặc chẳng lo âu.



Kẻ phân sáp cực đà xong phận

575.Người trốn còn lận đận lao đao.

(trang 18 bản in:)

Hết phương ẩn yểng nhà nào,

Kẻ lên trên núi người vào vườn hoang.

Kẻ thì thơ thẩn ngoài đàng,

Sợ quan có một sợ làng bằng ba.

580.Lúc này hiếm đứa gian tà,

Duồng theo trận gió u hoà bẻ măng.

Vậy nên đổi lốt thay chăn,

Nghèo đà cháy cánh còn ăn đặng gì.

Đói rách cũng phải chịu lỳ,

585.Bà con cách mặt sầu bi thống tình.

Ba chìm bảy nổi linh đinh,

Nay ở chỗ nọ mai rinh chỗ nầy.

Khác chi chim đã lạc bầy,

Tìm cây nương ẩn kiếm cây đỗ nhờ.

590.Nghĩ đà thất sở thân sơ,

Phải trước khai sáp bây giờ đã xong.

Chẳng còn nhiều lúc cực lòng,

Nghe ai lớn tiếng chạy cong thở dài.

Kể chi bờ bụi chông gai,

595.Gặp ai có hỏi thưa ngài bẩm ông.

Trong lưng còn lại mầy đồng,

Bị bắt ít chiến sạch không như chùi.

Nghĩ suy cho thấu đầu đuôi,

Đọc khai cho rồi đi sáp với nhau.

600.Lúc nầy ai ở lại sau,

Dài tóc cũng mắc trọc đầu cũng mang.

Cực vì các cậu biện bang,

Thổi lòng tìm vít đạp đàng bẻ măng.

Vỏng lên vỏng xuống lăng xăng,

605.Thấy bóng các cậu sợ bằng quan to.

Lỗ chi vàng gánh vào kho,

Bắc đặng tả đạo thưởng cho bạc tiền [bắt]

Gặp thì gặp vận gặp duyên,

Mấy nhà cấm cố đặng quyền khảo tra.

610.Ma bắt coi mặt người ta,

Mấy người nghèo đói đem ra đánh liền.

(trang 19 bản in:)

Đã cùng lại ở chẳng yên,

Những sợ bang biện tới miềng nhà giam.[miền]

Thầy nghe lời nói việc làm,

615.Đâu đó một cách Bắc Nam một tuồng.

Vườn nhà phá trông luôn tuồng,

Lặn lội ở cạng thuồng luồng nào quen. [ở cạn]

Cha thầy khác thể như đèn,

Giấu giếm sao kính chúc chen sao rồi [10]

620.Các cha bắt đặng lần hổi,

Đức thầy bắt đặng gò bồi thị Lưu

Số là có đứa gian cừu,

Điểm chị cậu Thọ tạm lưu lối nầy.

Quan quân hỏa tốc đến vây,

625.Xét nhà lái Sỉ thấy thầy ở mô.

Tịch phong ba chữ Gia-tô,

Quan quân ở đó ra vô ba ngày.

Xét đặng áo lễ đồ Tây,

Hỏ tra ông Quả phải thầy hay không.

630.Anh ta chối vái ròng ròng,

Tôi là bổn đạo biết còng gì đấu.

Quan quân tính việc còn lâu,

Dạy đóng gông giải để hầu tỉnh tra.

Đức thầy khát nước thiết tha,

635.Ở trong lẩm lúa bước ra bề ngoài.

Quan quân xem thấy kinh oai,

Kêu la truyền báo dậy tay vang làng.

Thanh la mõ ống tứ phan,

Dùi gậy giáo mát kéo đoàn phủ vây [mác]

640.Lâu nay mới thấy ông tây,

Bá quan thiên hạ dậm đầy đến coi.

Quan dạy đóng cũi cho rồi,

Bỏ vào trong ấy để ngồi nhắm chơi.

Mấy người tùng dã rụng rời,


645.Bấy lâu mới thấy việc đời quá hung.

[10] Cậu Thành, cậu Quạn, cậu Châu, cậu Sự, cậu hơn, cậu Bữu

(trang 20 bản in:)



Đã trói rồi lại đóng gông,

Bà con lái Sĩ đều đồng gia gian.

Đánh dây xâu lại một đoàn,

Tịch phong của cải giao làng lảnh canh.

650.Tốc sai phi báo tỉnh thành,

Xin cho tỉnh phái tùy hành khỏi lo.

Trời lụt nước hãy còn to,

Quan truyền khiêng cũi lần dò đi lên.

Nam nữ hai mười bốn tên,

655.Dẫn lên một lược còn chuyên dọc đàng [lượt].

Giải lên trình nạp tỉnh quan,

Lịnh truyền các trại phân tan giam cầm.

Gần xa nghe đã kinh tâm,

660.Tứ phương thiên hạ rầm rầm chạy coi.

Truyền canh nghiêm nhặt vô hổi,

Các bác đầu mục đứng ngồi tái xanh.

Quan đòi ông Quả vào dinh,

Nọc căng roi khảo nát mình xé da.

665.Thầy Tuyền cũng bị khảo tra,

Đau đớn quá sức kêu la dậy trời.

Hỏi qua sao khẩu ít lời,

Đều đặng đều mất rã rời chưa yên,

Đức thầy quá nỗi ưu phiền,

670.Bịnh mang đã năng quan truyền khoan tra.

Đòi thầy đầu thuốc điều hòa,

Kỳ mười lăm bữa hoặc là bịnh thuyên.

Nào hay mạng tạo hồ thiên,

Đủ ngày kỳ hẹn bỏ miềng dương gian.[miền]

675.Cám thương mọi nỗi bàng hoàng,

Làm thơ để kính tất hoàn công lao.

Có thơ rằng:

Cõi Nam đạo thánh rạng công lao,

Sấm sét tư bề chẳng chuyển nao.

Trăm trận ba đào tay lái vững,

680.Một lòng kính mến ngọn cờ cao.

(trang 21 bản in)

Đã cam vì Chúa trăm phen thác,

Còn tiếc đền ơn một lưỡi đao.

Hài cốt biết đâu tìm kiếm đặng,

Dòng quyên bay hãy trả cho tao.



685.Đức cha quan đã tán rồi [táng]

Mấy người còn lại ngậm ngùi than van.

Phần thương phần sợ hai đàng,

Cha về quê kiễng bỏ đoàn con chiên.

Quan đòi ông Quả thầy Tuyền,

690.Bắt khai làm án phát liền về kinh.

Đòi các đạo trưởng vào dinh,

Dạy khai sự tích sự tình do lai.

Tỉnh quan hội các lời khai,

Đều kết án nặng sớ lai ngự tiền.

695.Ít lâu có chỉ về liền,

Kẻ xử trảm giảo người truyền canh giam.

Không cùng mọi nỗi khổ cam,

Chép qua hòa lượt để làm gương soi.[11]

____________

[11]xử trảm các cậu bắt đặng lúc trước



Có thơ rằng:

Đàng hẹp đã từng chịu khổ lao,

700.Lâm cơn bỉ cực há lòng nao.

Phú mình chịu phép vua truyền lịnh,

Đổ máu đền ơn Chúa ngự cao.

Thắng trận chói lòa đầu đội mũ,

Toàn công chớ nệ cổ mang đao.

705.Chúa đà phán hứa khi lâm nạn,

Quan hồi trình thưa đã có tao.



Trong cả nước cực đà đủ đổi,

Ba tỉnh nầy còn rối hơn xa.

Một là trong tỉnh Biên-Hòa,

710.Tàu Tây lên đánh quan Ta đốt liều.

(trang 22 bản in:)

Mấy nhà cầm cố cháy thiêu,

Bổn đạo ở đó chết nhiều thương thay.

Hai là Tư ngãi cũng cay,[Quảng Ngãi]

Các ông đầu mục giải đày lên cơ.

715.Bị chói nước độc ngất ngơ,

Lần hồi chết hết ráo hơ không còn.

Chết thâm đến kẻ bà con,

Những người lên đó thăm lom mà về [nom]

Ba là Nam-định quá ghê,

720.Nhận nước bổn đạo no nê ngư hà.

Kẻ thì cho voi vật chà,

Người thì trảm quyết biết là mấy muôn.

Thảm thương châu lụy nhỏ tuông [tuôn]

Một thơ để kính mấy muôn người nầy.

Có thơ rằng:

725.Đàng ngay đạo chính giữ noi làm,

Gặp hội rồng mây chết cũng cam.

Vì Chúa một lòng đền đất Việt,

Tử hình trăm cách rạng trời Nam.

Công linh cao tạc miền thiên quấc,

730.Ngãi khí bây tham cõi thế phàm.

Một cuộc cờ cao đà thủ thắng,

Phù sanh đời tạm chẳng lòng tham.



Đặng Đức Tuấn đang hồi bảng đảng,

Thuật lại đây truyện vãn cho cùng.

735.Tứ vi sấm sét đùng đùng,

Giam cầm khắp chốn gông cùm khắp nơi.

Nghe trong Bình-thuận thảnh thơi,

Tính vào trong ấy trốn chơi ít ngày.

Thấy trong thì sự đắng cay,

740.Điều trần một tập tỏ bày căng duyên [căn]

Làm rồi lại ở chẳng yên,

Buộc lưng đi trốn ra miền Nga-mân.[xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi].

Đi đến ở nhà bình dân,

Đặng hơn mười bữa tứ lân hay rồi.

(trang 23 bản in:)

745.Bang biện Tú-Quối đến coi,

Truyện vãn tử tế nằm ngồi làm quen.

Ít lâu nghe việc chẳng hèn,

Sợ tội vốn có tham tiền thưởng không.

Ngở ngàn khó bắt đóng gông [ngỡ ngàng]

750.Biểu làng đến hỏi thử ông xứ nào.

Đang buổi thiên hạ lao xao,

Làng không dám chứa bắt ào giải quan.

Kê gông kêu trói chàng ràng,

Tú-Quới mới lãnh xin làng miễn đi.

755.Ta là người biết thị phi.

Bằng làng muốn giải đừng thì gia gian.

Để ra đó mặc lượng quan,

Hoặc là phân sáp về làng ta chơi.

Tú –Quới rước về nghỉ ngơi,

760.Trà thuốc cơm nước việc đời cũng ngoan.

Sớm mai đủ mặc cả làng [mặt]

Ba người tùng dã một đoàn giải đi.

Đến huyện Mộ-đức một khi,

Quan ra ngồi khách tức thì đam vô. [đem]

765.Quan hỏi chú nầy ở mô,

Đi trốn thế ấy có đồ chi không.

Tuần rằng: dám bẩm lịnh ông,

Tôi ở Bình-định làng trong Quy-hòa.

Trong ấy quan giở hết nhà,

770.Nên tôi túng thế lần ra ngoài nầy.

Đồ chi cũng chẳng có đây,

Vật dùng ít cái tớ thầy tứ nhân.

Quan dạy lính lại coi gần,

Xét trong bao tấu điều trần sáu chương.

775.Lấy đam ra trước huyện đường,

Quan coi ngẫm nghĩ chưa tường căn duyên.

Tối lại quan đòi hỏi riêng,

Tuấn phải đạo trưởng chịu liền cho xong.

Ban đầu nói trở ròng ròng,

780.Quan đòi tra khảo trong lòng e lo.

(tr. 24 bản in:)

Nghĩ suy khó nỗi đôi co,

Liền chịu đạo-trưởng quan cho ra ngoài.

Tập giấy với người cả hai,

Huyện làm tờ bẩm giải lai tỉnh thành.

785.Đến nơi án sát tả dinh,

Truyền gông thiếp diệp bình minh đam vào.

Sáng ngày bố án ngồi cao,

Đòi Tuấn vào đó lẽ nào cứ khai.

Dạy đem sách lễ ra ngoài,

790.Giở nơi có ảnh hình nài Chúa tôi.

Quan rằng Tuấn hãy bước qua,

Chẳng làm thì phải khảo tra bây giờ.

Tuấn rằng: bẩm ông xuống phước tôi nhờ.

Ảnh nầy hình Chúa tôi thờ xưa nay,

795.Thờ vua còn phải hết ngay,

Thờ Chúa đâu dám đạp giày thế ni.

Ngày xưa lòng đã kính vì,

Ngày nay trở mặt đạp đi sao đành.

Ông lớn rộng lượng thẫm tình,

800.Vốn tôi chẳng dám mạng khinh trào đình.

Bố rằng: hắn nói cũng minh,

Dạy đam sách lễ ngoài dinh trở vào.

Ăn nói giọng thấp giọng cao.

Tuấn đi học đạo chỗ nào phải khai.

805.Chịu chức thầy đạo với ai,

Đã đi dạy đạo đàng ngoài hay đây.

Chú nầy thế có đi Tây,

Phải sao chịu vậy cho ngay cho tường.

Tuấn rằng: ông lớn khá thương,

810.Ban cho giấy viết tại trường tôi khai.

Quan truyền giấy viết tương lai,

Bắt ngồi tại đó viết khai cho rồi.

Lời khai rằng:

Quê tôi Bình-định làng chính Quy-hòa,

Giữ đạo truyền gia mẹ cha đã mất.

(trang 25 bản in:)

815.Còn thật một tôi, anh em chết rồi không còn ai cả,

Đang buổi thong thả, tôi có học văn,

Sao qua Pi-năng, học hành đạo lý [sau]

Latinh chữ ấy, giảng tập bảy năm.[Giảng dạy Hán văn]

Lực đá công thẳm phong làm Linh-mục,

820.Ông cụ Y-núc phong chức cho tôi,[Giám mục Cuénot Thể truyền chức linh mục]

Rồi mới phản hồi, nước Nam truyền giáo.

Đi về thủy đạo, tàu khách Dũ –hưng.

Chú ấy đã từng, đàng đi lui tới.

Nhà tại phố mới, rày chẳng có đây.

825.Còn sự đi Tây, tôi không hề biết.

Chỉ có một việc, ở tại Pi-năng,[Pénang, Malaysia]

Học đạo lẽ hằng, bất tri thế cuộc.

Tứ phương Nam Bắc, tới đó học hành,

Nhựt-bổn, Đạc-thanh, Xiêm-la, Triều-tiển.

830.Đủ người bốn biển học tại trường nầy.

Học đặng làm thầy, dạy người thiên hạ.

Những việc giặt giả vốn chẳng biết tường [giặc giã]

Người cõi Tây-dương cũng không quen lớn.

Những việc dữ tợn, cũng chẳng hề làm.

835.Khi về nước Nam, tôi ra Tư-ngãi,[Quảng Ngãi ngày nay]

Ở đây ngũ tải, giảng đạo Chúa trời.

Đi đủ khắp nơi, rao truyền thánh giáo.

Hễ nhà có đạo, thì tôi vãn lai.

Bất luận nhà ai, tôi đều có ở.

840.Nhà đạo quan giở, tôi trở về trong.

Trốn lánh không xong, tôi liền ra lại.

Đến nhà kẻ ngoại, bắt giải ra đây.[bị bắt cuối năm 1861]

Trước sau làm vầy, vốn không sai chậy.

Năm kia tàu lại, đánh giặc ngoài Hàn.[Quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công cửa Hàn, Đà Nẵng]

845.Chúng tôi vô cang, xin quan thẩm truất. [can]

Nghĩ đều oan ức tôi mới điều trần,

Đợi dịp mà dâng, lượng trên minh chiếu.

Xét suy thì hiểu, đạo có tình ngay.

Đạo không vẽ bày thông mưu với giặc.

(trang 26 bản in)

850.Tứ phương nam bắc, đạo dạy lẽ công.

Đạo dạy thuận tùng quấc vương thủy thổ.

Trải qua kiêm cổ, đạo dạy nhiều nơi.[kim cổ]

Thờ phượng Chúa trời, trung quân hiếu phụ.

Ai ai tôn thủ chẳng dám sai ngoa.

855.Mọi việc thật thà, gian khai cam tội.



Lời khai nạp đó vi bằng,

Quan coi rồi hỏi Pi-năng nước nào.[Pénăng, Malaysia]

Tuấn rằng: là đất Hồng-mao,

Thuở xưa vốn thiệt cù lao Chà-và.

860.Khách thương buôn bán lại qua,

Hồng-mao chiếm cứ lập nhà hội thương.

Latinh lập một học đường,

Để cho các nước dựa nương học hành.

Ở đó học chữ Latinh,

865.Vốn tôi không biết sự tình Langsa.[Pháp]

Giáo-tông đạo chính Rôma,

Ấy là chính gốc truyền ra đạo trời.

Muôn dân muôn nước dưới đời,

Nước nào giữ đạo vưng lời ngài khuyên.

870.Trong đạo có chức có quyền,

Cội gốc là cũng người truyền phong ra.

Quan thấy lời khai khó tra,

Dẹp lại để đó đặng ba bốn ngày.

Đợi quan tuần phủ về đây,

875.Công đồng hiệp nghị tỏ bày thỉ chung.

Đến ngày đủ mặt ba ông,

Đòi vào tra khảo quá hung phen nầy.

Nói rằng: đạo-trưởng khai đây,

Những đều xa lắc làm vầy sao xong?

880.Tuấn cứ khai vậy ròng ròng,

Quan truyền tra khảo hai vòng quá đau.

Máu ra đà đỏ xóm sau,

Phải thêm ít chuyện lao đao cho rồi.

(tr. 27 bản in:)

Ba chiến ba mươi sáu roi,

885.Mỗi roi lấy thịt cha ôi là trơi.

Khai rồi về trại nghỉ ngơi,

Nằm ngồi đau đớn khó chơi phen nầy.

Các ông đầu-mục tỉnh đây,

Sợ đà dởn ốc e lây đến mình.

890.Ít ngày có quan ngoài kinh,

Vua sai thám thính thình lình địa phương.

Ghé vào Tư-ngãi tỉnh đường,[12]

_____________

[12] Huỳnh bộ quan biện lý học



Bố án đem trẻ sáu trương điều trần.

Quan kinh coi rồi mới phân,

895.Điều trần đắc lực phải dưng trào đình.

Mặc ý bố án hai dinh,

Muốn phát thì phát không mình phát cho.

Sai quân đòi Đức-Tuấn vô,

900.Xem qua diện mạo hỏi giò sơ qua.

Quan tỉnh dạy mở gông ra,

Viết điều trần lại cùng hòa lời khai.

Tỉnh làm sớ tấu và hai,

Chạy về cơ mật dâng ngay ngự tiền.

905.Năm ngày có chỉ về liền,

Dạy giải Đức-Tuấn ra miền kinh đô.

Dạy ban lộ phí dịch do,

Truyền quân các tỉnh đều vô đón ngừa.

Việc vua cẩn mật chằng vừa,

910.Mỗi tỉnh ba mươi quân đưa dọc đàng.

Gông cụt cổ hãy còn mang,

Quân đưa gươm võng dường quan về triều.

Coi qua truyện đã trớ trêu,

Giải ra tới Huế mới chiều xế qua.

915.Kinh thành đồn khắp gần xa,

Bá quan thiên hạ coi đà quá kinh.

Trước đam vào tại bộ binh,

Thấy quan Lâm đó một mình mà thôi.[Lâm Duy Hiệp]

(tr. 28 bản in:)

Thượng binh nhập nội tấu rồi,

920.Một chập kéo tới vô hồi quân gia.

Biết là mấy vạn người ta,

Đến coi thì sự thử là làm sao.

Phan Lâm quan lớn ngồi cao,[Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp]

Các quan bề dưới ngồi bao hai hàng.

925.Trào đình thể diện nghiêm trang,

Gươm hầu giáo đóng chật đàng đầy sân.

Quan truyền trải chiếu cho gần,

Biểu Tuấn ngồi đó hỏi lần căng nguyên [căn]

Rằng: vua có chỉ phán truyền,

930.Dạy đòi đạo-trưởng xét riêng hai đều.[điều]

Một là hỏi đạo Chúa-Dêu,[Chúa Israel]

Nghe trong đạo ấy nhiều điều minh mang.

Hai là hỏi việc Tây-dang, [Tây-dương]

Đến đây khuấy rối làm ngan cớ gì.[ngang]

935.Biết sao nói thiệt đừng khi,

Mặc lượng Hoàng-đế rộng suy thẩm tình.

Tuấn rằng: nhờ lượng trào đình,

Phận tôi ti thiểu một mình đến đây.

Ông lớn cho phép nói ngay,

940.Thì tôi mới dám tỏ bày đạo nguyên.

Đạo dạy thờ Chúa thiêng liêng,

Dựng nên trời đất cầm quyền tử sinh.

Hễ người thì có tính linh,

Giữ noi đạo chính thường sinh cõi trời.

945.Đạo dạy thờ vua dưới đời,

Vì vua thay mặt Chúa-Trời trị dân.

Đạo dạy thảo kính song thân,

Cù lao bát ngát ân cần đền ơn.

Ấy là ba đấng trọng hơn,

950.Gọi là tam phụ có quờn khác nhau.[quyền]

Đạo hằng giảng tập dồi trau,

Đời nay vưng giữ đời sau hưởng nhờ.

Thánh kinh thánh giáo chư thơ,

Rành rành lẽ thật sờ sờ đàng ngay.

(tr. 29 bản in:)

955.Dễ tôi đâu dám vẽ bày,

Đâu đó một lẽ xưa nay một đàng.

Rôma có một Giáo-hoàng,

Cội đầu Hội-thánh mối mang đạo trời.

Tuy rằng đạo giảng nhiều nơi,

960.Giáo hữu chốn chốn vưng lời Pha-pha.

Như giặc bởi nước Rôma,

Thì tôi cam chịu đạo qua phá rầy.

Vốn nay chẳng phải làm vầy,

Langsa nước khác đến gây chiến trường.

965.Giặc nầy tôi chưa biết tường,

Nhưng mà ước cũng tìm đường lợi danh.

Vậy nên gây cuộc chiến tranh,

Nếu đi giảng đạo hoành hành sao nên.

Xin suy lấy việc năm trên,

970.Đạo mà nội ứng với thuyền Langsa.

Thì khi tàu ấy mới qua,

Đua nhau bỏ xứ chạy hòa theo Tây.[13]

________________

[13] BCT: khi Đô đốc Rigault de Genouilly đưa 14 chiến thuyền với 3000 quân Pháp và Tây Ban Nha xuống đánh vào Cửa Hàn thì cố đạo Pellerin đã quả quyết với vị đô đốc nầy là có 600 ngàn giáo dân sẵn sàng trợ giúp. Nhưng khi trận chiến nổ ra, đã không những không có giáo dân nào đứng ra “nối giáo cho giặc” mà, trái lại, có một số giáo dân đã gia nhập cuộc kháng chiến của nhân dân địa phương cùng với khoảng 2000 quân của quan Lê Đình Lý đánh trả (Dẫn theo GS Ngô Vĩnh Long-Oscar Chapuis, The Last Emperors of Vietnam: From Tu Duc to Bao Dai)

Vốn đạo không có lòng nầy,

Đâu đó bình tịnh xưa nay như thường.

975.Phụng công thủ pháp mọi đường,

Binh thuế như chúng kiều lương như người.

Không lòng mạng phát dễ ngươi,

Không làm trộm giặc không lời khinh khi.

Chẳng dám khóa quá qua thì,

980.Là vì đạo Chúa chẳng vì Langsa.

Trào đình là lượng mẹ cha,

Bắt bớ thì chịu thứ tha thì nhờ.

Dễ tôi đâu dám nói vơ,

Việc việc đều có sờ sờ chẳng không.

985.Quan rằng: đạo-trưởng nói thông,

Ta cho về nghỉ mai hòng đòi lên.

Các quan lớn nhỏ hai bên,

Ngó theo gục gặc miệng khen rầm rì.

Truyền đam Đức-Tuấn ra đi,

990.Đam vào hình bộ một khi nạp tờ.

(tr. 30 bản in:)

Đòi quân trấn thủ chực hờ,

Lãnh về chỗ ấy để chờ chỉ trên.

Ngày sau quan thượng đòi lên,

Đam vào mật thất một bên dạy ngồi.

995.Hỏi hang cớ sự đẩu đuôi,[han]

Truyền dọn cơm nước xong rồi mới ăn.

Ăn rồi quan mới nói năn, [năng]

Trào đình nhiều kẻ băng xăng nghi ngờ.

Bề trên cũng đã làm ngơ,

1000.Cực vì các tỉnh sớ tờ hằng tâu.

Xin làm nhiều sự hiểm sâu,

Bề trên chẳng chịu tự lâu đến rày.

Như nay đạo-trưởng ra đây,

Làm điều trần nữa dưng ngay ngự tiền.

1005.Nói rõ sự tích căn nguyên,

Lượng vua biết đặng việc hiền chớ lo.

Dạy lấy giấy viết ban cho,

Tuấn lãnh về phủ tò mò viết đêm.

Viết rồi sáng lại đam lên,

1010.Mật phong hai chữ dưng lên ngự đình.

Ngày sau sắc hạ phân minh,

Giải gông thiết diệp suy tình liễn ban.

Việc này tại Chúa cao quan,

Mình vốn người tội ai màng sá chi.

1015.Quan quân thấy việc dị kỳ,

Đồng đải khắp xứ lạ chi người đời.[đồn đại]

Ở trong trấn phủ thảnh thơi,

Để đi thong thả dạo chơi ngoài thành.

Mấy nhà cấm cố xung quanh,

1020.Đặng đi thăm viếng kẻ lành người đau.

Ai ai quen lạ mặc dầu,

Gặp đặng thì cũng như nhau vui mừng.

Kinh thành thiên hạ quan quân,

Kính nhường đạo-trưởng khen tưng đạo trời.

1025.Những người xấc lấc dễ ngươi,

Dẹp thói cười nhạo không lời khinh khi.

(tr.31 bản in:)

A dua nói dọc tức thì,

Đạo ở ngay thẳng không chi lỗi lầm.

Không làm trộm cướp gian tham,

1030.Dầu người xa lạ nhứt tâm thương vì.

Nghĩ câu thố tử hồ bi,[thố từ hồ bi: thỏ chết chồn cũng đau buồn]

Động lòng thương kẻ ở vi các làng.

Kể sao cho xiết gian nan,

Trăm bề tất bạc một đoàn tù lao.

1035.Làm hai tập nữa dưng vào,

Vua trên ngự giám định giao cuộc hòa.

Dạy quan cơ mật truyền ra,

Tư cho các tỉnh hay qua sự nầy.

Trào đình đã tính làm vầy,

1040.Sai Đặng –đức-Tuấn vào Tây xin hòa.

Tỉnh nào Đức Tuấn trải qua,

Người đạo tỉnh ấy giải già cho đi.

Tờ vô quân thứ một khi,

Các quan ở đó bắt đi sự nầy.

1045.Rằng: quân tả đạo với Tây,

Một lòng sanh sự phá rầy biên cương.

Trào đình lại khó tư lương,

Dẹp chuyện ấy lại tìm đường lo toan.

Tháng ba có chỉ rõ ràng,

1050.Phụ nữ lão ấu giải giang cho về.

Bộ đà sao đặng bộn bề,

Nghe tàu Tây đến chẳng hề tuông ra [tuôn]

Tàu Tây ra đó tháng ba,

Hỏi trào đình có chịu hòa hay không?

1055.Vua sai quan xuống hội đồng,

Chịu giao hòa cuộc cho xong nước nhà.

Quan Tây xin chữ quan Ta,

Hẹn về mười bữa rồi ra bây giờ.

Đến ngày mười bốn tháng tư,

1060.Tàu Tây ra lại gởi thơ lên thành.

Xin cho quan lớn xuất hành,

Vào trong Gia-định lập thành lời giao.[14]

_____________

[14 ]BCT: Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia định ký hòa ước 1962 với Pháp. Lm Đặng Đức Tuấn làm thông ngôn.

(tr. 32 bản in:)

Trào đình bàn luận lao xao,

Khó sai khó định ông nào ra đi.

1065.Vì còn nhiều lẽ sinh nghi,

Chưa biết bàn luận lẽ gì cho hay.

Quan Lâm đòi Tuấn hỏi ngay,

Tàu Tây xin vậy Tuấn bày làm sao.

Tuấn rằng: ông lớn lượng cao,

1070.Sớ tâu Hoàng-đế xin vào Đồng-nai.

Cho tôi tùng phái với ngài,

Tôi dám quả quyết không ai làm gì.

Hòa đặng thì ta hòa đi,

Bằng hòa chẳng đặng ta thì về ngay.

1075.Quan Lâm vào tấu nội ngày, [Lâm Duy Hiệp]

Vua ban sắc hạ y rày lời xin.

Quan Phan ở cửa nghe tin, [Phan Thanh Giản]

Cũng vào xin chỉ đặng in như lời.

Phen nầy Đức-Tuần phải vời,

1080.Vào trong tả thị là nơi hoàng thành.

Cung môn cơ mật thông hành,

Cẩm y thị vệ chư dinh bẩm ngài.

Ra vô lên xuống hoài hoài,

Hết ai cơ hỏi hết ai ngăn ngừa.

1085.Chỉ truyền tả vệ thủy sư,

Dọn tàu Thoại-Phụng mùa đưa quan triều.

Hoàng ân ban thưởng cũng nhiều,

Truyền đãi yến trọng bấy nhiêu sứ thần.

Quân gia cờ trống rân rân,

1090.Đưa quan sai phái đỏ rần kinh sư.

Ngày hai mươi bốn tháng tư,

Tàu Tây ngoài cửa chực chờ tàu Ta.

Hai bên mừng rỡ lại qua,

Cột dây dắc thẳng chạy ba đêm ngày [dắt]

1095.Đến cửa Cần-giờ vào ngay,

Tàu đi như bắn khói bay nữa lừng.

Đến thành Gia-định tàu ngừng,

Quan Tây bắn súng chào mừng vang tai.

(tr. 33 bản in:)

Nam-kỳ thiên hạ ai ai,

1100.Nghe tàu vua đến ra ngoài ngóng trông.

Các dân các nước quá đông,

Dập dều tàu lửa tàu đồng bốn phương.

Nghinh ngang phố xá kiều lương,

Giang sơn chốn cũ khách thương lạ lùng.

1105.Định hội đồng tháng năm mồng một,

Ba nước đều triều phục y quan.

Quân gia cờ súng nhiêm trang,

Thủy quân nghiêm chỉnh rước quan lên thuyền.

Ba nước ba sắc toàn quyền,

1110.Hiệp nhau khán nghiệm quả nhiên chẳng lầm.

Trống kèn ca nhạcuan Tây đưa xá Phan Lâm về thuyền.

Xin bồi ngũ bá vạn nguyên.

Xin giao sáu tỉnh cho yên mọi đàng.

1115.Phan Lâm đòi Tuấn hỏi han,

Tây xin nhiều quá tính bàn làm sao.

Tuấn rằng: ông lớn lượng cao,

Đòi bồi thì chịu đừng giao tỉnh thành.

Ý tôi thì vậy đã đành,

1120.Mặc lượng ông lớn quyết hành chủ trương.

Quan mới nói với Tây-dương,

Xin phải nghĩ lại khoản thường khoản giao.

Sao cho đừng thấp đừng cao,

Định cho vừa phải lẽ nào mới an.

1125.Như lời xin trước khó toan,

Mặc lượng Nguyên soái định bàn làm sao.

Sáng ngày Giám đốc xuống tàu,

Đam tập hòa ước xin hầu quan ta.

Làm lời ba nước giao hòa,

1130.Mười hai điều khoản phân hai ba điều.

Quan Ta thấy bớt đã nhiều,

Chịu đi cho rảnh hồi triều cho xong.

Hẹn ngày mười chín hội đồng,

Trên bờ binh mã dưới sông binh thuyền.

(tr. 34 bản in:)

1135.Rước quan Khâm-mạng toàn quyền,

Hiệp nhau đóng ấn cho yên cuộc hòa.[Hiệp ước 1862]

Rập rình binh mã nhạc ca,

Thiên hạ tụ hội biết là mấy muôn.

Xong rồi bắn súng tiếp luôn,

1140.Rầm rầm trời đất ùng ùng khói mây.

Kéo cờ ngũ sắc đông tây,

Thủy bộ rực rỡ cỏ cây ánh ngời.



***

Việc rồi Tuấn mới dạo chơi,

Thăm đức cha Ngãi với người cố tri.

1145.Gặp nhau mừng rỡ xiết chi,

Giã từ cố cựu Tuấn thì về kinh.

Dạo chơi rồi xuống tàu mình,

Đền ngày mười một khởi trình ra khơi.

Tàu vua về Huế đến nơi,

1150.Chính đêm mười bốn nước trời rạng chưn.

Hải đài bắn súng chào mừng,

Dưới tàu đáp lại vang lừng kinh đô.

Ngày rằm chuyên chở các đồ,

Quan làm sớ tấu việc vô giao hòa.

1155.Mười chín tháng năm chỉ ra,

Phụ nữ lão ấu đều tha trở về.

Dọn dẹp gánh xách về quê,

Nam tráng đầu mục một bề còn giam.

Ngày hai mươi bốn tháng năm,

1160. Sắc cho Đức-Tuấn về thăm quê mình.

Các ông xin ở lại kinh,

Gắng lại soi thử sự tình làm sao.

Chuyến nầy giáo hữu lại hao,

Thấy còn giam cấm lại nao tấm lòng.

1165.Nhiều người xuất giáo cho xong,

Về cùng thê tử lo trong cửa nhà.

Mười bảy tháng sáu chỉ ra, [chiếu chỉ của vua]

Nam tráng đầu mục thảy tha phản hồi.

Nơi nơi che rạp che chòi,

1170.Trụi trơn vườn đất loi ngoi trại lều.

(tr. 35 bản in:)

***

Tuấn về thăm viếng đã nhiều,

Mười phần cố cựu tàn xiêu bảy phần.

Chỉ đòi ra Huề vài lần,

Lại cho hồi quản phân vân đi liền.

1175.Gẫm mình đầy dẫy tội khiên,

Chúa chưa kêu gọi lên miền nghỉ an.

Trải qua một hội gian nan,

Nghĩ xem ít kẻ vẹn toàn thỉ chung.

Chúa tôi nhơn thứ khoan dong,

1180.Nếu cứ còng thẳng ai hòng dám đang.

Thấy trong thiên vận tuần hoàn,

1182.Thuật tích việc đạo để truyền hậu lai.

Chung.

______________________

[1]http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=496&Catid=225

[2] Nguyễn Văn Thoa-Cuộc đời và tác phẩm của Linh mục Đặng Đức Tuấn. Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh 2017